Phê bình văn học ở Việt Nam những năm gần đây

10:18 13/05/2010
ĐỖ ĐỨC HIỂU* Thưa ông, qua hai tác phẩm gần đây nhất của ông, tôi được biết ông quan tâm nhiều đến vấn đề Phê bình Văn học ở nước ta. Theo ý ông, Phê bình, Nghiên cứu Văn học ở Việt Nam những năm gần đây có biến đổi gì không? Hay nó dậm chân tại chỗ như một vài người đã nói?

GS Đỗ Đức Hiểu - Ảnh: 100years.vnu.edu.vn

- Cám ơn cô, đúng vậy, tôi rât quan tâm đến Phê bình Văn học, đến lý luận và nghiên cứu văn học ở nước ta. Sở dĩ trong hai tác phẩm gần đây của tôi, tôi nói nhiều đến Phê Bình Mới ở Pháp, về Thi pháp hiện đại, về Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết, truyện ngắn ở phương Tây, bởi vì tôi thấy nhiệm vụ của tôi là phải phổ biến với người đọc Việt Nam những thành tựu to lớn của Pháp (và phương Tây nói chung) về lĩnh vực này. Có thể nói, ở phương Tây phê bình lý luận, nghiên cứu văn học ở thế kỷ 20 trải qua một cuộc “cách mạng” chưa từng thấy trong lịch sử văn học thế giới. Khởi đầu là ngôn ngữ học hiện đại của Saussure, tiếp đó các nhà “hình thức chủ nghĩa Nga” với những tên tuổi lừng lẫy, như Bakhtine, Jakobson, Lotman, Chklovski. Rồi Phê bình mới (New Criticism) ở Anh và Mỹ. Những năm 60 thế kỷ này, phong trào Phê bình Mới (Novelle Critique) nở rộ ở Pháp, từ trung tâm này, cuộc cách mạng Phê bình Văn học lan tỏa đi khắp thế giới và được thế giới chấp nhận. Tôi xin lỗi, tôi nói thừa, bởi vì tôi đã nói kỹ trong hai cuốn Đổi mới phê bình văn học (1994) và Đổi mới đọc và bình văn (1999) của tôi. Nhiều nhà nghiên cứu văn học phương Tây, hoặc am hiểu nó như Đặng Anh Đào, Đặng Thị Hạnh, Phùng Văn Tửu, Trần Đình Sử, Lê Hồng Sâm, Lộc Phương Thủy, Đào Duy Hiệp, Trần Hinh... đã giới thiệu nhiều thành tựu của Phê bình Mới, tôi nghĩ người đọc Việt Nam sẽ không thờ ơ trước những biến đổi lớn lao của phương Tây. Giao lưu văn hóa hiện nay là hiện tượng toàn nhân loại, toàn thế giới.

* Vậy theo ông đã có những thay đổi trong Phê bình Văn học ở Việt Nam những năm gần đây?

Đúng vậy. Cách đây trên mười năm, các nhà Phê bình Việt Nam hay dẫn Bielinski, Lukacs, Timofeev, Khrapchenco... Bây giờ Bakhtine, Jakobson, R. Barthes, Genete... đã hơi quen tai với một số người đọc Việt Nam. Tiếc rằng lực lượng am hiểu Phê bình Mới quá mỏng, quá ít ứng dụng vào Phê bình Văn học Việt Nam, nó chưa đủ sức tạo nên một “trào lưu” Phê bình Mới, cho nên những tiếng nói thường rơi vào im lặng. Có mấy ai nhớ Đặng Thị Hạnh đã phê bình rất hay thơ Quang Dũng, Thâm Tâm, Xuân Diệu hoặc Đặng Anh Đào viết về Nguyễn Huy Thiệp, về Nam Cao. Đầu năm 2000 này, tôi đọc được ba quyển phê bình, nghiên cứu của Đỗ Lai Thúy: Con mắt thơ (in năm 1992, tái bản năm 1994, 1998), Hồ Xuân Hương- hoài niệm phồn thực (1999) và Từ cái nhìn văn hóa (1999), tất cả tổng cọng trên 1300 trang. Điều đáng ghi nhớ ở những tác phẩm phê bình, nghiên cứu của Đỗ Lai Thúy là tác giả kết hợp được lý luận với xúc cảm mà trước kia, trước 1945 thường bị tách rời, hoặc như phương pháp Lanson, có thể kể các công trình của Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đổng Chi... người ta chú ý nhiều đến lý luận, đến khách quan, nhẹ về tình cảm, cảm xúc, hoặc người ta chú trọng đến trái tim cảm xúc như Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư... nhẹ về khách quan, về lý luận. Còn các tác phẩm hiện nay của Đỗ Lai Thúy đã kết hợp được hai vấn đề lý luận và cảm xúc một cách tự nhiên. Phải thật công bằng mà nhận xét rằng từ năm 1945 đến nay, một nửa thế kỷ đã trôi qua. Trong nửa thế kỷ này phê bình, nghiên cứu văn học của nhân loại đã đạt những thành tựu to lớn, văn học là nghệ thuật ngôn từ, tức là những ký hiệu văn chương chứa đựng trong bản thân nó biết bao ý nghĩa rõ ràng và tiềm ẩn, ý nghĩa bề mặt và ý nghĩa chièu sâu. Thứ hai, văn bản được khai thác dưới dạng cấu trúc, nó như một mạng lưới với một cấu trúc đặc thù, âm thanh với âm thanh, ngữ nghĩa với ngữ nghĩa, ngữ pháp với ngữ pháp, những yếu tố này liên kết chặt chẽ với nhau, tạo thành một văn bản đa âm sắc.

* Đấy là nói đến sự đổi mới của phê bình hiện nay với phê bình trước đây một nửa thế kỷ. Thế còn phê bình hiện nay có biến đổi gì so với phê bình cách đây trên một chục năm?

Tôi nghĩ rằng có và biến đổi nhiều, chủ yếu về chất lượng. Song, tôi xin nhắc lại, số lượng bài phê bình sách phê bình qúa mỏng, không gây được sự chú ý của đa số độc giả. Biến đổi thế nào? Trước đây tiếng nói phê bình chỉ tập trung ở một kênh, kênh xã hội học, tất nhiên nó đã đạt được một số thành tích. Song do những hoàn cảnh xã hội lịch sử, nó không được hiện đại hóa. Nhiều người tưởng rằng trên thế giới chỉ có một tiếng nói của Phê bình Văn học ấy, hoặc nó là duy nhất đúng, không thể tranh cãi. Họ không hiểu rằng từ đầu thế kỷ này, Sausure, các nhà hình thức chủ nghĩa Nga, các trào lưu Phê bình Mới đã có những sáng tạo tuyệt vời trong lĩnh vực Phê bình Văn học. Có những nhà phê bình theo phương pháp ngôn ngữ học, phong cách học, hoặc phân tâm học Freud, Jung, phương pháp triết học, không loại trừ phương pháp xã hội học. Bởi vậy, một văn bản được soi sáng dưới nhiều khía cạnh nên nó trở nên phong phú bội phần.

* Ông có thể nêu một số thí dụ?

Tác phẩm Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực phát hiện phồn thực là nguyên lý triết học của thơ Hồ Xuân Hương, vấn đề được tranh cãi trong một thế kỷ nay, tôi nghĩ phương pháp giải quyết của Đỗ Lai Thúy là thuyết phục hơn cả. Nó có tầm nhìn sâu rộng về quá khứ, về lịch sử loài người. Phồn thực có tính thiêng liêng khi con người chưa tách biệt với vũ trụ, cây cỏ và động vật. Về sau với sự ra đời của đạo Phật, Đạo giáo, Nho giáo, phồn thực, Iinga và Yoni, hoạt động tính giao mới bị coi là cái gì tục tĩu, dâm đãng, phải cấm đoán và phồn thực phải bị che giấu dưới những tấm voan, nửa kín nửa hở để có thể tồn tại. Thơ Hồ Xuân Hương “hoài niệm” phồn thực là như vậy, đó cũng là một tìm tòi, một khám phá của Đỗ Lai Thúy. Bài học mà người đọc, nhất là người phê bình văn học rút ra từ ba tác phẩm của Đỗ Lai Thúy là phải có một trình độ văn hóa khá đầy đủ lịch sử phát triển của loài người, triết học (triết Đông và triết Tây), dân tộc học... mới có thể đánh giá được tác phẩm văn chương. Có một “nền” văn hóa trong con người mình, người phê bình văn học mới có khả năng sáng tạo. Một bài học khác có thể rút ra từ ba tác phẩm của Đỗ Lai Thúy là người đọc, người phê bình văn chương phải luôn hiện đại hóa bản thân mình, hiện đại hóa những kiến thức của mình. Làm công việc phê bình thật nhiều gian nan. Trong tác phẩm Từ cái nhìn văn hóa, tôi rất thích chân dung các nhà khoa học Việt Nam: Hoàng Xuân Hãn, Từ Chi, Thái Bá Vân, những cuộc đời trong sáng đầy hi sinh và lý tưởng cái Đẹp, vì vậy đầy sáng tạo không nề hà “những búa rìu” dư luận, định kiến sai lầm và ác độc. Từ Chi và Thái Bá Vân là những nhà khoa học như vậy. Các ông đã trả lời thẳng thắn các vấn đề Văn học là gì? Chức năng của nó? Với các ông, nghệ sĩ thường là những người “cô đơn”, xa lạ với thế giới xung quanh.

* Còn Con Mắt Thơ, thưa ông, có gì mới?

Con Mắt Thơ
viết về Thơ Mới (1932- 1945). Hoài Thanh đã viết về “thời đại thi ca” lớn lao đó. Gần đây, nhiều luận án tiến sĩ từ Nam chí Bắc viết về Thơ Mới, về Xuân Diệu... Và Đỗ Lai Thúy cũng viết về trào lưu Thơ Mới. Do hoàn cảnh lịch sử, sự biến đổi của phê bình văn học trên thế giới từ những năm 60 vừa qua. Đỗ Lai Thúy đã kết hợp được sâu sắc lý thuyết với cảm thụ, lý trí với trực giác. Theo tôi nghĩ cho đến bây giờ, về phương diện cảm thụ, xúc cảm, chưa ai vượt được Hoài Thanh, một cây bút đầy rung động tế nhị, tinh tế với phong cách dịu ngọt thấm sâu vào trái tim người đọc. Còn ngòi bút của Đỗ Lai Thúy lại “khoa học”, “khách quan” hơn, anh đã viết ba chương trong Con Mắt Thơ về ba nhà thơ Đinh Hùng, Bích Khê, Hàn Mặc Tử và có những đóng góp mới so với Thi Nhân Việt Nam.

Cuối cùng tôi xin lỗi nhà phê bình nghiên cứu Đỗ Lai Thúy, bởi vì bên trên, tôi mới chỉ nói được những cảm nhận ban đầu của tôi về ba tác phẩm của anh. Còn nhiều bài học cho người đọc chúng ta có thể rút ra từ ba tác phẩm ấy. Như vậy, tôi thấy rằng phê bình văn học ở Việt Nam những thập niên cuối thế kỷ này có nhiều biến đổi cơ bản, cần xem xét, định giá cho đúng.

Xin cám ơn giáo sư Đỗ Đức Hiểu

ĐÀO MAI TRANG thực hiện
Hà Nội 6 - 2000
(138/08-00)



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)

  • TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

  • NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.

  • TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.

  • THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.

  • HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.

  • TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.

  • INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.

  • TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.

  • HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.

  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.

  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.