GS Đỗ Đức Hiểu - Ảnh: 100years.vnu.edu.vn
- Cám ơn cô, đúng vậy, tôi rât quan tâm đến Phê bình Văn học, đến lý luận và nghiên cứu văn học ở nước ta. Sở dĩ trong hai tác phẩm gần đây của tôi, tôi nói nhiều đến Phê Bình Mới ở Pháp, về Thi pháp hiện đại, về Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết, truyện ngắn ở phương Tây, bởi vì tôi thấy nhiệm vụ của tôi là phải phổ biến với người đọc Việt Nam những thành tựu to lớn của Pháp (và phương Tây nói chung) về lĩnh vực này. Có thể nói, ở phương Tây phê bình lý luận, nghiên cứu văn học ở thế kỷ 20 trải qua một cuộc “cách mạng” chưa từng thấy trong lịch sử văn học thế giới. Khởi đầu là ngôn ngữ học hiện đại của Saussure, tiếp đó các nhà “hình thức chủ nghĩa Nga” với những tên tuổi lừng lẫy, như Bakhtine, Jakobson, Lotman, Chklovski. Rồi Phê bình mới (New Criticism) ở Anh và Mỹ. Những năm 60 thế kỷ này, phong trào Phê bình Mới (Novelle Critique) nở rộ ở Pháp, từ trung tâm này, cuộc cách mạng Phê bình Văn học lan tỏa đi khắp thế giới và được thế giới chấp nhận. Tôi xin lỗi, tôi nói thừa, bởi vì tôi đã nói kỹ trong hai cuốn Đổi mới phê bình văn học (1994) và Đổi mới đọc và bình văn (1999) của tôi. Nhiều nhà nghiên cứu văn học phương Tây, hoặc am hiểu nó như Đặng Anh Đào, Đặng Thị Hạnh, Phùng Văn Tửu, Trần Đình Sử, Lê Hồng Sâm, Lộc Phương Thủy, Đào Duy Hiệp, Trần Hinh... đã giới thiệu nhiều thành tựu của Phê bình Mới, tôi nghĩ người đọc Việt Nam sẽ không thờ ơ trước những biến đổi lớn lao của phương Tây. Giao lưu văn hóa hiện nay là hiện tượng toàn nhân loại, toàn thế giới. * Vậy theo ông đã có những thay đổi trong Phê bình Văn học ở Việt Nam những năm gần đây? Đúng vậy. Cách đây trên mười năm, các nhà Phê bình Việt Nam hay dẫn Bielinski, Lukacs, Timofeev, Khrapchenco... Bây giờ Bakhtine, Jakobson, R. Barthes, Genete... đã hơi quen tai với một số người đọc Việt Nam. Tiếc rằng lực lượng am hiểu Phê bình Mới quá mỏng, quá ít ứng dụng vào Phê bình Văn học Việt Nam, nó chưa đủ sức tạo nên một “trào lưu” Phê bình Mới, cho nên những tiếng nói thường rơi vào im lặng. Có mấy ai nhớ Đặng Thị Hạnh đã phê bình rất hay thơ Quang Dũng, Thâm Tâm, Xuân Diệu hoặc Đặng Anh Đào viết về Nguyễn Huy Thiệp, về Nam Cao. Đầu năm 2000 này, tôi đọc được ba quyển phê bình, nghiên cứu của Đỗ Lai Thúy: Con mắt thơ (in năm 1992, tái bản năm 1994, 1998), Hồ Xuân Hương- hoài niệm phồn thực (1999) và Từ cái nhìn văn hóa (1999), tất cả tổng cọng trên 1300 trang. Điều đáng ghi nhớ ở những tác phẩm phê bình, nghiên cứu của Đỗ Lai Thúy là tác giả kết hợp được lý luận với xúc cảm mà trước kia, trước 1945 thường bị tách rời, hoặc như phương pháp Lanson, có thể kể các công trình của Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đổng Chi... người ta chú ý nhiều đến lý luận, đến khách quan, nhẹ về tình cảm, cảm xúc, hoặc người ta chú trọng đến trái tim cảm xúc như Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư... nhẹ về khách quan, về lý luận. Còn các tác phẩm hiện nay của Đỗ Lai Thúy đã kết hợp được hai vấn đề lý luận và cảm xúc một cách tự nhiên. Phải thật công bằng mà nhận xét rằng từ năm 1945 đến nay, một nửa thế kỷ đã trôi qua. Trong nửa thế kỷ này phê bình, nghiên cứu văn học của nhân loại đã đạt những thành tựu to lớn, văn học là nghệ thuật ngôn từ, tức là những ký hiệu văn chương chứa đựng trong bản thân nó biết bao ý nghĩa rõ ràng và tiềm ẩn, ý nghĩa bề mặt và ý nghĩa chièu sâu. Thứ hai, văn bản được khai thác dưới dạng cấu trúc, nó như một mạng lưới với một cấu trúc đặc thù, âm thanh với âm thanh, ngữ nghĩa với ngữ nghĩa, ngữ pháp với ngữ pháp, những yếu tố này liên kết chặt chẽ với nhau, tạo thành một văn bản đa âm sắc. * Đấy là nói đến sự đổi mới của phê bình hiện nay với phê bình trước đây một nửa thế kỷ. Thế còn phê bình hiện nay có biến đổi gì so với phê bình cách đây trên một chục năm? Tôi nghĩ rằng có và biến đổi nhiều, chủ yếu về chất lượng. Song, tôi xin nhắc lại, số lượng bài phê bình sách phê bình qúa mỏng, không gây được sự chú ý của đa số độc giả. Biến đổi thế nào? Trước đây tiếng nói phê bình chỉ tập trung ở một kênh, kênh xã hội học, tất nhiên nó đã đạt được một số thành tích. Song do những hoàn cảnh xã hội lịch sử, nó không được hiện đại hóa. Nhiều người tưởng rằng trên thế giới chỉ có một tiếng nói của Phê bình Văn học ấy, hoặc nó là duy nhất đúng, không thể tranh cãi. Họ không hiểu rằng từ đầu thế kỷ này, Sausure, các nhà hình thức chủ nghĩa Nga, các trào lưu Phê bình Mới đã có những sáng tạo tuyệt vời trong lĩnh vực Phê bình Văn học. Có những nhà phê bình theo phương pháp ngôn ngữ học, phong cách học, hoặc phân tâm học Freud, Jung, phương pháp triết học, không loại trừ phương pháp xã hội học. Bởi vậy, một văn bản được soi sáng dưới nhiều khía cạnh nên nó trở nên phong phú bội phần. * Ông có thể nêu một số thí dụ? Tác phẩm Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực phát hiện phồn thực là nguyên lý triết học của thơ Hồ Xuân Hương, vấn đề được tranh cãi trong một thế kỷ nay, tôi nghĩ phương pháp giải quyết của Đỗ Lai Thúy là thuyết phục hơn cả. Nó có tầm nhìn sâu rộng về quá khứ, về lịch sử loài người. Phồn thực có tính thiêng liêng khi con người chưa tách biệt với vũ trụ, cây cỏ và động vật. Về sau với sự ra đời của đạo Phật, Đạo giáo, Nho giáo, phồn thực, Iinga và Yoni, hoạt động tính giao mới bị coi là cái gì tục tĩu, dâm đãng, phải cấm đoán và phồn thực phải bị che giấu dưới những tấm voan, nửa kín nửa hở để có thể tồn tại. Thơ Hồ Xuân Hương “hoài niệm” phồn thực là như vậy, đó cũng là một tìm tòi, một khám phá của Đỗ Lai Thúy. Bài học mà người đọc, nhất là người phê bình văn học rút ra từ ba tác phẩm của Đỗ Lai Thúy là phải có một trình độ văn hóa khá đầy đủ lịch sử phát triển của loài người, triết học (triết Đông và triết Tây), dân tộc học... mới có thể đánh giá được tác phẩm văn chương. Có một “nền” văn hóa trong con người mình, người phê bình văn học mới có khả năng sáng tạo. Một bài học khác có thể rút ra từ ba tác phẩm của Đỗ Lai Thúy là người đọc, người phê bình văn chương phải luôn hiện đại hóa bản thân mình, hiện đại hóa những kiến thức của mình. Làm công việc phê bình thật nhiều gian nan. Trong tác phẩm Từ cái nhìn văn hóa, tôi rất thích chân dung các nhà khoa học Việt Nam: Hoàng Xuân Hãn, Từ Chi, Thái Bá Vân, những cuộc đời trong sáng đầy hi sinh và lý tưởng cái Đẹp, vì vậy đầy sáng tạo không nề hà “những búa rìu” dư luận, định kiến sai lầm và ác độc. Từ Chi và Thái Bá Vân là những nhà khoa học như vậy. Các ông đã trả lời thẳng thắn các vấn đề Văn học là gì? Chức năng của nó? Với các ông, nghệ sĩ thường là những người “cô đơn”, xa lạ với thế giới xung quanh. * Còn Con Mắt Thơ, thưa ông, có gì mới? Con Mắt Thơ viết về Thơ Mới (1932- 1945). Hoài Thanh đã viết về “thời đại thi ca” lớn lao đó. Gần đây, nhiều luận án tiến sĩ từ Nam chí Bắc viết về Thơ Mới, về Xuân Diệu... Và Đỗ Lai Thúy cũng viết về trào lưu Thơ Mới. Do hoàn cảnh lịch sử, sự biến đổi của phê bình văn học trên thế giới từ những năm 60 vừa qua. Đỗ Lai Thúy đã kết hợp được sâu sắc lý thuyết với cảm thụ, lý trí với trực giác. Theo tôi nghĩ cho đến bây giờ, về phương diện cảm thụ, xúc cảm, chưa ai vượt được Hoài Thanh, một cây bút đầy rung động tế nhị, tinh tế với phong cách dịu ngọt thấm sâu vào trái tim người đọc. Còn ngòi bút của Đỗ Lai Thúy lại “khoa học”, “khách quan” hơn, anh đã viết ba chương trong Con Mắt Thơ về ba nhà thơ Đinh Hùng, Bích Khê, Hàn Mặc Tử và có những đóng góp mới so với Thi Nhân Việt Nam. Cuối cùng tôi xin lỗi nhà phê bình nghiên cứu Đỗ Lai Thúy, bởi vì bên trên, tôi mới chỉ nói được những cảm nhận ban đầu của tôi về ba tác phẩm của anh. Còn nhiều bài học cho người đọc chúng ta có thể rút ra từ ba tác phẩm ấy. Như vậy, tôi thấy rằng phê bình văn học ở Việt Nam những thập niên cuối thế kỷ này có nhiều biến đổi cơ bản, cần xem xét, định giá cho đúng. Xin cám ơn giáo sư Đỗ Đức Hiểu ĐÀO MAI TRANG thực hiện Hà Nội 6 - 2000 (138/08-00) |
TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.
TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?
HOÀNG NGỌC HIẾN ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...
THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.
TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.
ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.
ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…
HỒ THẾ HÀ Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.
JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...
PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...
HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.
HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.
NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.
ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.
LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.
TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.
PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.