Phê bình huyền thoại

08:54 10/11/2009
ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

Nhà phê bình Đặng Tiến - Ảnh: thotanhinhthuc.org

Tựa đề sách, ngắn gọn, không rõ nghĩa. Nhẽ ra nó phải là: phê bình văn học đi từ huyền thoại học, vừa báo hiệu được nội dung, vừa giúp cho người đọc vào hiệu sách nhìn qua cái bìa, là lãnh hội ngay vấn đề, mình có quan tâm hay không. Ngày nay, sách trong nước có những tiêu đề dài thòong, bất tiện khi trích dẫn, nhưng tiện cho độc giả.

Phê bình văn học dựa theo những “cổ mẫu”, archétype, thường thấy trong huyền thoại, truyện cổ, truyền thuyết, là một hướng đi mới của văn học, gọi tắt là “phê bình huyền thoại” theo thuật ngữ phương Tây: chữ mythocritique được nhà nghiên cứu Gilbert Durand sử dụng từ cuối thập niên 1970. Có lẽ ông dựa theo một tư trào trước đó, và song song, là phê bình tâm lý, psychocritique, dựa theo tâm lý và phân tâm học. Những trào lưu này có đóng góp nhất định, tạo nên giọng điệu mới lạ cho ngành phê bình văn học, thường được gọi chung là phê bình mới: nouvelle critique.

Tuy nhiên, người Pháp trung bình nhìn vào tiêu đề Mythocritique có thể đoán nghĩa, còn độc giả Việt Nam không chuyên, đọc vào bốn chữ Phê bình huyền thoại thì không đoán được chuyện gì, và trong Lời nói đầu tác giả cũng không giải thích. Dù rằng sách hướng vào những sinh viên có quan tâm đến lĩnh vực (tr. cuối, 205), tác giả cũng nên nghĩ đến những người đọc không có may mắn làm sinh viên (của mình).

Vậy nhược điểm cơ bản của cuốn sách là thiếu tính chất sư phạm, trong một quần chúng cần học hỏi. Việc đầu tiên là phảỉ giới thiệu đơn giản và minh bạch khái niệm huyền thoại theo quan điểm ngày nay trên thế giới. Ngay trang đầu Đào Ngọc Chương đã nhắc tới các định nghĩa trong Từ Điển Văn Học (Nxb Thế Giới, 2004), mục huyền thoại do Đỗ Đức Hiểu viết rất hay, nhưng ngắn ngủi, một trang, so với mục thần thoại đại cà sa, 7 trang. Trang viết của Đỗ Đức Hiểu cô đúc và chính xác, ông có đề cập đến ngành phê bình thần thoại học và ghi chú tiếng Pháp mythocritique, đối chiếu với phân tích huyền thoại học, mytho-analyse, điều mà Đào Ngọc Chương lẽ ra phải nhắc lại.

Tuy nhiên, nhìn chung thì Phê bình huyền thoại là sách nghiêm túc và cần thiết, gồm ba phần: định nghĩa huyền thoại, giới thiệu ngành phê bình huyền thoại, ứng dụng vào việc phân tích hai bài Chơi giữa mùa Trăng của Hàn Mạc Tử và một bài thơ Xuân Quỳnh... Sau đó là một phụ lục, 50 trang, phong phú, dịch tư liệu tiếng Anh, có ghi nguồn, không ghi tác giả. Phụ lục đưa ra nhiều kiến thức cơ bản với những ví dụ văn học cụ thể, giúp người đọc hiểu rõ phê bình huyền thoại là cái gì.

Đào Ngọc Chương dịch văn song suốt. Trước đây, anh có dịch từ tiếng Anh một sách nghiên cứu của Todovov (Pháp) về Bakhtin (Nga) cũng là một tư liệu cần thiết(2).

Cuối cùng, phần thư mục chứng tỏ hạn chế của tác giả về mặt tư liệu, trong việc xử lý một đề tài lớn lao và phức tạp.

Phê bình huyền thoại chuyên khảo của Đào Ngọc Chương là một đóng góp vào nền học thuật nước nhà. Đề tài quá rộng cho một bài điểm sách.

Tôi sẽ tìm dịp trở lại đề tài này(3).

Đ.T
(248/10-09)

------------
(1) Đào Ngọc Chương, Phê bình huyền thoại, 210 trang, in 500 cuốn, NXB Đại Học Quốc Gia, TP.HCM, 2008.
(2) Todorov, Nguyên lý đối thoại, 220 trang, in 500 cuốn, NXB ĐHQG, TP. HCM, 2004
(3) Để có dịp giới thiệu cuốn Người và huyền thoại, L’Homme et son mythe của Jacques Dournes, về huyền thoại dân tộc Jorai, Tây nguyênViệt Nam, nxb Aubier - Montaigne, 1968, Paris.
Sách nghiên cứu thực địa tận nguồn, chính xác, thông thái và hiện đại.







 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐẶNG TIẾN    

    Đầu đề này mượn nguyên một câu thơ Nguyễn Đình Thi, thích nghi cho một bài báo Xuân lấy hạnh phúc làm đối tượng.

  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • LƯƠNG THÌN

    Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.

  • VƯƠNG TRỌNG

    Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).

  • NHỤY NGUYÊN  

    Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNG

    Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).

  • THÁI KIM LAN

    Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
     

  • HOÀI NAM

    Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.

  • ĐỖ LAI THÚY   

    Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.

  • TRẦN NHUẬN MINH   

    Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).

  • YẾN THANH   

    “vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
    ngọn lửa phù du mách bảo
    vui buồn tương hợp cùng đau”

                     (Hồ Thế Hà)

  • Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.

  • NGÔ THẢO

    Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.

  • Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Tôi gọi đó là nợ. Món nợ của hòn sỏi nhỏ Triệu Từ Truyền, trót mang trên người giọt nước mắt ta bà của văn chương.

  • NGÔ MINH

    Nhà thơ Mai Văn Hoan vừa cho ra mắt tập thơ mới Quân vương &Thiếp (Nxb. Thuận Hóa, 6/2015). Đây là tập “thơ đối đáp” giữa hai người đồng tác giả Mai Văn Hoan - Lãng Du.

  • DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN

    Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.

  • NGUYỄN HIỆP

    Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.

  • Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.