PHAN TRỌNG HOÀNG LINH
Bước chân vào con đường nghiên cứu văn học và hòa mình vào trào lưu lý thuyết đang trở nên thời thượng, chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism), nhưng Phan Tuấn Anh không biến nó thành cái “mác” để thời thượng hóa bản thân.
Trải qua những bước tiến bài bản, vững chãi từ lí thuyết, với tư duy hệ thống và khả năng áp dụng lí thuyết vào thực tiễn đời sống văn học đương đại vô cùng sôi động, anh đã chứng tỏ mình là nhà nghiên cứu hậu hiện đại nhiều triển vọng. Nghiên cứu văn học từ lí thuyết hậu hiện đại, hiển nhiên không phải là áp một bộ khung lí thuyết thô cứng, vô sinh vào các hiện tượng văn học phong phú, hữu sinh, để vô hình trung tái kiến tạo các đại tự sự. Với Phan Tuấn Anh, đó thực chất là sự thể nghiệm bản thân vào những làn sóng của một hệ hình văn hóa mới. Trong quá trình thể nghiệm ấy, anh chọn cho mình một người bạn đồng hành khổng lồ, đại văn hào Mĩ Latin G.G.Márquez, Nobel Văn chương 1982. Cuốn sách đầu tay vừa mới ra mắt, Gabriel García Márquez và nỗi cô đơn huyền thoại(*), không chỉ là kết tinh của một phương pháp lí thuyết (hậu hiện đại), mà còn là dấu ấn của một chặng đường đối thoại và diễn giải Márquez với hơn 20 tiểu luận chuyên sâu từng công bố, được giới chuyên môn đánh giá cao. Ở bài viết này, chúng tôi thử hệ thống hóa những góc độ diễn giải Márquez trong chuyên luận trên.
1. Từ đặc thù văn hóa
Theo Đỗ Lai Thúy, văn hóa là một thực thể có tính hệ thống, trong đó, văn học là yếu tố cấu thành. Do đó, dẫu văn học là yếu tố mạnh, có khả năng tác động, góp phần thay đổi hệ thống văn hóa, nhưng xét cho cùng, vì nằm trong hệ thống, văn học luôn chịu sự chi phối hoặc sự quy định của văn hóa. Để phê bình một hiện tượng văn học, cần xét xem hiện tượng ấy thuộc về hệ thống văn hóa nào. Như vậy, việc Phan Tuấn Anh dành nhiều công sức để làm rõ suối nguồn văn hóa Mĩ Latin thời hậu thực dân trong tiểu thuyết Márquez là thao tác hợp lí, đồng thời thỏa mãn mong muốn của chính Márquez, được dùng mô hình văn hóa thuộc về ông để thấu hiểu các sáng tác của ông. Chủ nghĩa hậu hiện đại là trào lưu văn hóa có tính nhân loại, nhưng trên những khu vực khác nhau, nó vẫn thể hiện những đường nét dị biệt, bản địa.
Theo lát cắt dọc, văn hóa Mĩ Latin là một nền văn hóa lai. Các thành phần của nó gồm người Indian bản xứ (da đỏ), người da trắng (chủ yếu là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha), người da đen (châu Phi), người da vàng (châu Á) và người lai. Sự đa dạng, phong phú đi đôi với sự phức tạp khi tình trạng phân biệt đẳng cấp chủng tộc thể hiện rất rõ qua đặc quyền của người da trắng trong tương quan với phần còn lại, rồi bản thân mỗi chủng tộc văn hóa cũng có những khối xung đột nội tại. Chưa kể những chấn thương tinh thần sâu sắc do người da trắng gây ra từ những ngày đầu. Trong suốt quá trình chinh phục, truy diệt và chia để trị Mĩ Latin, những kẻ thực dân đã không ngần ngại kết hợp đồng thời vũ lực (súng ống), tư tưởng (Kito giáo Tây Ban Nha là thiết chế nhà thờ khắc nghiệt và đẫm máu bậc nhất châu Âu lúc bấy giờ) và bệnh tật (vi trùng). Tất cả đã in hằn trong tiềm thức văn hóa Mĩ Latin và kéo dài tàn dư của nó đến tận thời hiện tại. Ở lát cắt ngang, hậu quả đương thời của lịch sử hình thành ấy là sự bất ổn thường nhật của tư tưởng hệ, chính trị, lãnh thổ, xã hội, tôn giáo…
Chỉ ra những đặc điểm trên, Phan Tuấn Anh hướng đến các vấn đề sau: Thứ nhất, cơ cấu chủng tộc văn hóa đa dạng là điều kiện ra đời của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mĩ Latin (mà các sáng tác của Márquez là bộ phận quan trọng), với “sự hòa quyện giữa tính khoa học duy lí của người phương Tây (đề cao hiện thực), với tính tâm linh của người da đen, tín ngưỡng đa thần, đam mê huyền thoại (đề cao huyền ảo) của người da đỏ”. Thứ hai, tiểu thuyết Márquez có sự phóng chiếu trạng thái giằng co, giữa khát khao vượt thoát khỏi sự chi phối của văn hóa “mẫu quốc” xưa với vị trí quan trọng không thể phủ nhận của nền văn hóa ấy trong đời sống Mĩ Latin đương đại. Trạng thái đó thể hiện rõ qua tính giễu nhại và nước đôi trong cảm quan về tôn giáo, qua cảm thức cô đơn ám ảnh từ hình tượng địa danh Macondo, qua bản chất thẩm mĩ của hình tượng căn bệnh thổ tả,… Theo chúng tôi, sự giằng co ấy là quy luật chung của các nền văn hóa (nhỏ) bị đồng hóa (trên các mức độ khác nhau) bởi các nền văn hóa thực dân, vừa đề kháng nhưng cũng vừa tiếp biến. Cốt yếu là Phan Tuấn Anh đã sử dụng chúng như những mã văn hóa để khai mở thành công nhiều biểu tượng đặc sắc của Márquez. Thứ ba, sự hỗn loạn của trật tự chính trị, xã hội và đặc biệt là sự mịt mù thông tin ở Mĩ Latin là môi trường tương thích của cảm quan đa trị thời hậu hiện đại. Đa trị về nhận thức và thông tin sẽ dẫn đến kết cấu mê lộ của truyện kể. Thứ tư, bước chân những đội quân xâm lược, bên cạnh văn hóa phương Tây chính thống, đã dẫn nguồn cả văn hóa trào tiếu dân gian vào châu Mĩ Latin, và chi phối đậm nét các sáng tác của (không chỉ) Márquez, tạo nên một thế giới phong phú của hệ thống hình tượng nghịch dị.
Đặc thù văn hóa Mĩ Latin hậu hiện đại chính là xuất phát điểm để Phan Tuấn Anh triển khai các góc độ diễn giải còn lại. Có thể, không phải tất cả các tiểu luận của cuốn sách đều thực sự tiếp cận Márquez từ góc độ văn hóa, nhưng trong những nghiên cứu còn lại, tác giả không nội quan thuần túy, mà thường nội - ngoại quan. Các vấn đề xem xét được đồng hành bằng phông văn hóa Mĩ Latin sâu rộng.
2. Từ bút pháp huyền ảo
Có thể thấy ảnh hưởng của Lê Huy Bắc tới quan niệm về cái huyền ảo (the magical) của Phan Tuấn Anh. Cái huyền ảo là một giai đoạn phát triển của kiểu sáng tác huyền ảo. Những thuật ngữ đồng cấp với nó là cái huyền thoại (the mythical) và cái kì ảo (the fantastic), để chỉ những giai đoạn khác nhau của kiểu sáng tác huyễn ảo. Giai đoạn đầu từ cổ đại đến trung cổ thuộc về cái huyền thoại, tương ứng với đặc tính thẩm mĩ: không sợ hãi. Giai đoạn hai từ cận đại đến hiện đại (khoảng từ thế kỉ XIV đến thế kỉ XIX) thuộc về cái kì ảo, đặc tính thẩm mĩ: sợ hãi. Giai đoạn ba từ hiện đại đến hậu hiện đại (khoảng từ thế kỉ XX đến nay) thuộc về cái huyền ảo, đặc tính thẩm mĩ: vừa sợ vừa không sợ, mang tính giễu nhại. G.G.Márquez - nhà văn hiện thực huyền ảo - là cách định danh quen thuộc. Nhưng trong dòng chảy của kiểu sáng tác huyền ảo ở giai đoạn huyền ảo, Márquez đã khẳng định chỗ đứng của mình như thế nào? Đó là vấn đề được Phan Tuấn Anh quan tâm.
Trước hết, đặc trưng huyền ảo Márquez là “thi tính” trong xây dựng hình tượng huyền ảo. Chất thơ trữ tình đậm nét hiện lên không chỉ ở những hình ảnh và hình tượng có tính lãng mạn, mà còn ở một phong cách trần thuật đậm chất thơ được tạo ra bởi “những câu dài, đa cấu trúc, sử dụng nhiều tính từ, tạo ra âm hưởng trùng điệp, tạo nhạc tính như tứ thơ văn xuôi”. Song, thủ pháp đắc lực nhất của Márquez là kéo dài đến mức quá khổ thời gian sự kiện, đặt nó vào trong không gian huyền thoại, khiến nó được huyền thoại hóa. Cái kì ảo được thi tính hóa, thiên về tính huyền thoại hóa khiến “con người không cảm giác có khoảng cách, cảm giác sợ hãi, tâm lí bị xâm phạm bạo tàn, bị đứt gãy hiện thực, mà cảm thấy sự gần gũi, thán phục trước những điều kì vĩ, mênh mông, diệu vợi”. Ngôi kể, do vậy, thường là ngôi thứ ba, chứ không phải ngôi thứ nhất như người kể về cái kì ảo.
Liên quan đến kĩ năng thuyết phục người đọc về sự hiện diện của cái kì ảo, Phan Tuấn Anh chỉ ra đặc trưng giọng điệu trần thuật của Márquez, một thứ giọng tự nhiên, trung tính trái ngược giọng lo lắng, bất an, hoảng hốt của các nhà văn kì ảo. Cái huyền ảo không gây sợ hãi, mà có khi còn chung sống hòa thuận với con người (như bóng ma trong Trăm năm cô đơn), nên sự khác biệt trên là tất yếu. Nhà nghiên cứu đã gọi đặc tính của giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Márquez là “độ không của trần thuật về cái huyền ảo”. Và chính đặc tính này đã tạo nên thành công đặc biệt của nhà văn.
Một thủ pháp thường được Márquez vận dụng, gây ấn tượng với người đọc về cái huyền ảo là định chỉ cái kì ảo bằng những con số chi tiết. Để người đối diện tin (dù là trong khoảnh khắc) có một đàn voi đang bay trên trời thì hãy cụ thể hóa đàn voi bằng số lượng 425 con. Thực ra, kiểu phóng đại về số lượng như vậy không phải đến Márquez mới có, mà đã xuất hiện từ Rabelais cùng chủ nghĩa hiện thực nghịch dị. Khác biệt ở chỗ, bút pháp phóng đại của Rabelais gắn với cảm hứng sinh sôi, thừa mứa của các yếu tố vật chất - thân xác. Còn trường hợp đàn voi của Márquez thì gây ấn tượng về cái huyền ảo. Tuy vậy, không ít trường hợp khác trong tiểu thuyết Márquez, với tư cách là hình tượng nghịch dị (do nền tảng văn hóa trào tiếu dân gian nhập cư như đã đề cập), các con số phóng đại cụ thể cũng thuộc về cảm hứng vật chất - thân xác. Chẳng hạn, con số 514 cô gái điếm trong Hồi kí về những cô gái điếm buồn của tôi. Hơn ai hết, Phan Tuấn Anh ý thức sâu sắc điều đó. Vậy thì ở những trường hợp này, thủ pháp miêu tả chi tiết bằng con số cụ thể (có thể đạt đến mức phóng đại) thuộc về mục đích thuyết phục cho cái huyền ảo hay thuộc về cảm hứng ngợi ca đời sống vật chất - thân xác dân gian?
Chúng tôi nghĩ rằng, thủ pháp trên thỏa mãn cả hai. Từ sự phóng đại nghịch dị của Rabelais đến sự phóng đại (có khi) nghịch dị của Márquez là hai giai đoạn phát triển không liền kề nhau của chủ nghĩa hiện thực nghịch dị. Sự phóng đại vui tươi, phóng khoáng của bút pháp nghịch dị thời Phục Hưng châu Âu, vốn thuộc về giai đoạn của cái huyền thoại, hầu như dị ứng hoàn toàn với bản chất gây sợ hãi của cái kì ảo. Nhưng nó lại phần nào gần gũi hơn với cái huyền ảo (cụ thể là chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mĩ Latin, một thế hệ di truyền xa xôi về thời gian lẫn khoảng cách địa lí). Đó là nguyên nhân khiến nó phục sinh mạnh mẽ ở chủ nghĩa hiện thực huyền ảo của Márquez, như nhiều nghiên cứu của Phan Tuấn Anh đã chứng minh. Thế thì có nên tách riêng chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mĩ Latin và cái nghịch dị trong tiểu thuyết Márquez? Cái huyền ảo dù sao vẫn khác cái huyền thoại. Vậy, cũng cần giới thuyết về cái nghịch dị của Márquez trong tương quan với cái nghịch dị huyền thoại. Đến đây đã là giới hạn của chúng tôi. Việc giải quyết những vấn đề ấy đành mong chờ ở sự đồng cảm và gửi gắm ở năng lực của nhà nghiên cứu.
Cái huyền ảo trong Márquez còn được Phan Tuấn Anh gắn với kết cấu mê lộ, gọi chung là “những mê lộ huyền ảo”.
3. Từ cảm quan đa trị đến kết cấu mê lộ
Cảm quan đa trị (multivalent sensibility) là sự tri giác và thức nhận thẩm mĩ về thế giới gắn với tình trạng bất tín nhận thức (espistemological uncertainty), mất niềm tin vào các đại tự sự (grand narrative), để hướng đến các tiểu tự sự (petit narrative) trong thời hậu hiện đại.
Qua nhiều tác phẩm của Márquez như Tướng quân giữa mê hồn trận, Tin tức về một vụ bắt cóc, Giờ xấu,… Phan Tuấn Anh chứng minh sự bao trùm của của cảm quan đa trị. Nó thể hiện trước tiên ở sự song tồn của các học thuyết về dân tộc tính khác nhau trong thực tiễn đời sống chính trị Mĩ Latin, được khúc xạ vào văn học, giữa tư tưởng thống nhất với tư tưởng độc lập, giữa độc tài với li khai. Biểu hiện của cảm quan đa trị Mĩ Latin trong tiểu thuyết Márquez, như phân tích của Phan Tuấn Anh, là hết sức phong phú. Nhưng lọc ra trong số đó, phát hiện độc đáo và nổi bật nhất là hình tượng các lãnh tụ và hình tượng tờ rơi. Hình tượng lãnh tụ là sự đa trị giữa hai bản chất: kẻ độc tài và nhà giải phóng, giữa tội nhân và anh hùng. Hình tượng tờ rơi là sự đa trị về mặt thông tin. Theo Phan Tuấn Anh, tờ rơi là đặc sản chính trị đường phố Mĩ Latin. Nó phục vụ cho mục đích triệt tiêu lẫn nhau của các lực lượng chính trị đối lập, trên cơ sở trạng thái bị o bế thông tin của đời sống xã hội. Tất nhiên, tất cả các cực đối lập trên chỉ trở nên đa trị khi chúng có được sự tiếp tay của người trần thuật ở thái độ khách quan, không đề cao hay hạ thấp bất cứ một đối cực nào. Hay nói đúng hơn, mỗi người trần thuật thông tin cũng là một cực trong tình thế đa trị thông tin. Người đọc, trong nỗ lực diễn giải của anh ta, trở thành một cực trị giữa thế giới đa trị ấy.
Trong văn học hậu hiện đại, cảm quan đa trị đã tạo ra hình thức tự sự mê lộ. Người đề xuất và luận giải về thuật ngữ “mê lộ” với tư cách một phạm trù triết mỹ phổ biến thời hậu hiện đại là nhà văn người Argentina J.L.Borges. Mê lộ dần trở thành một thủ pháp tự sự, nơi tác giả dùng những kĩ thuật trần thuật hậu hiện đại nhằm phá vỡ tính mạch lạc, logic của ngôn ngữ, giọng điệu, không - thời gian và ngôi trần thuật. Những kĩ thuật ấy ở Márquez, theo Phan Tuấn Anh, gồm có: 1/ Trần thuật đa chủ thể, đa điểm nhìn; 2/ Sự đồng hiện nhiều thế hệ, nhiều số phận, nhiều ký ức làm thành vòng tròn thời gian nghệ thuật; 3/ Sự xuất hiện của các yếu tố huyền ảo, không ngừng xen cắt và tham gia vào thực tiễn; 4/ Đặt sự kiện nằm trong thì quá khứ nhằm hồi tưởng lại theo các hướng khác nhau; và 5/ Nhiễu hóa sự định vị minh bạch về không thời gian nghệ thuật bằng các phép ẩn dụ. Các thủ pháp này luôn tương tác, đan cài vào nhau, mở ra một mê lộ trước mắt độc giả, cản trở mọi sự tiếp nhận thông tin một chiều, tuyến tính. Không tồn tại một trung tâm tuyến tính nào làm điểm tựa cho người đọc tiền hiện đại và người đọc hiện đại.
Lối tự sự mê lộ, mục đích tự thân của nó không phải gây khó cho người đọc, mà nhằm thể hiện cảm quan đa trị, phi trung tâm hóa như là bản chất thế giới thời hậu hiện đại. Con người và nhận thức của nó chỉ là những mảnh vỡ khác nhau của thế giới. Chính khát vọng tìm ra sự thật duy nhất của con người hiện đại đã đẩy nó vào những mê cung. Để thoát ra khỏi mê cung ấy, phương thức duy nhất là liên kết các mảnh vỡ, liên kết các văn bản về thế giới. Đó là ý nghĩa thẩm mĩ của tự sự mê lộ trong tiểu thuyết hậu hiện đại nói chung và tiểu thuyết hậu hiện đại Márquez nói riêng.
Từ cuốn sách của Phan Tuấn Anh về nỗi cô đơn huyền thoại của Márquez, có thể nhận thấy một trường tiếp xúc rất rộng, còn nhiều vấn đề vượt khỏi ba góc độ diễn giải được hệ thống ở đây, nhưng thiển nghĩ, đó là ba góc độ cơ bản nhất. Khẳng định nền tảng văn hóa hậu hiện đại Mĩ Latin là xuất phát điểm của Phan Tuấn Anh, không có nghĩa chúng tôi đặt nhà nghiên cứu lọt thỏm trong phê bình văn hóa. Bởi các tiểu luận trên góc độ văn hóa không chiếm ưu thế so với các tiểu luận trên góc độ văn bản. Phông văn hóa sâu rộng, lại vận dụng hợp lí đã giúp Phan Tuấn Anh loại bỏ được sự thô ráp, khuôn khổ của phương pháp. Hơn nữa, Márquez cũng chỉ là văn bản được kiến tạo từ rất nhiều văn bản xung quanh. Sử dụng tri thức văn hóa liên ngành để soi tỏ liên văn bản trong tiểu thuyết Márquez, với Phan Tuấn Anh, thế giới luôn là một văn bản vẫy gọi, gọi mời khám phá.
P.T.H.L
(TCSH326/04-2016)
...........................................
Gabriel García Márquez và nỗi cô đơn huyền thoại, Nxb. Văn học, H., 2015. (Giải thưởng Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế 2015 và Giải thưởng của Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam 2015).
VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.
HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).
HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.
ĐẶNG TIẾN (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.
ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…
LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.
NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.
NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...
MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.
NGUYỄN QUANG HÀ (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này: Biết rằng trong cõi nhớ thương Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi
MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.
TRẦN THUỲ MAI (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!
MAI VĂN HOAN (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!
PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).
TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.
NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.