Tiếp sau Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh..., đến lượt Phan Khôi được mở hội thảo khoa học tại quê hương Quảng Nam hôm qua 6.10, đúng 127 năm ngày sinh của ông, để vinh danh một con người đa tài.
Phan Khôi (người đội nón) chụp chung với Tố Hữu (bìa phải), Văn Cao (bìa trái) và Tú Mỡ tại Việt Bắc - Ảnh: gia đình cung cấp
Người “gây sự”
GS Nguyễn Đăng Mạnh gọi Phan Khôi là người có cảm hứng “gây sự”. Cùng với đặc điểm chỉ nói lý không nói tình, bác học mà bình dân, hài hước châm biếm..., yếu tố “gây sự” đó đã làm nên một phong cách nghị luận, bút chiến độc đáo.
Những công bố gần đây của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân về di sản Phan Khôi càng làm sáng rõ hơn tầm vóc của “người gây sự”, người sở hữu di sản đồ sộ gồm thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, khảo cứu, lý luận, phê bình văn hóa, văn học, dịch thuật... chứ không chỉ “đóng khung” ở hoạt động báo chí. Hơn 50 tham luận gửi đến hội thảo Phan Khôi và những đóng góp trên lĩnh vực văn hóa dân tộc do Sở VH-TT-DL và Liên hiệp Các hội khoa học kỹ thuật tỉnh Quảng Nam tổ chức sáng qua 6.10, trong đó có 19 ý kiến trình bày, phát biểu trực tiếp tại hội trường, đã phác họa một Phan Khôi đa tài. Sự nghiệp học thuật của ông gây kinh ngạc ở hàng loạt lĩnh vực: nhà báo, nhà tư tưởng, người yêu quý lịch sử nước nhà, nhà ngữ học, nhà Trung Hoa học, nhà khoa học... Riêng lĩnh vực văn chương, ông tung hoành trên các mảng: phê bình (giai đoạn 1918 - 1941), sáng tác thơ (khởi xướng phong trào Thơ mới), văn xuôi (viết truyện bằng Hán văn, viết tiểu thuyết Quốc ngữ...), tiểu phẩm, hồi ký, dịch giả (dịch tác phẩm của Tư Mã Thiên, Lỗ Tấn, Quách Mạt Nhược, dịch Kinh Thánh...).
Nhà giáo Phạm Phú Phong, Đại học Khoa học Huế, bình luận: Không phải ngẫu nhiên mà người Quảng có câu “lý sự quá Phan Khôi”. Và cũng không phải tình cờ mà Phan Khôi có biệt hiệu Tú Sơn, theo tiếng Pháp Tout Seul là “Cô độc”, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Q.Thắng. Thống kê trước đó của nhà nghiên cứu văn học Thanh Lãng cho thấy, trong 10 cuộc tranh luận trên văn đàn giai đoạn 1930 - 1945 thì Phan Khôi khởi xướng hoặc tham gia đến 5 vụ, với những vụ đình đám như Nho giáo, Quốc học, Truyện Kiều, Duy tâm - duy vật... Tính khí và bản lĩnh đó đã hun đúc nên phẩm chất của một trong những người tiêu biểu cho “Quảng Nam hay cãi”.
Những phát hiện mới
Lâu nay, bài thơ Tình già của Phan Khôi cùng bài viết giới thiệu Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ được cho là đăng tải trên tờ tuần báo Phụ nữ tân văn số 122 (ra ngày 10.3.1932). Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, bài Tình già đã in sớm hơn. Cụ thể, bài Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ được Phan Khôi đưa in trước tiên trong Tập văn mùa xuân (phụ trương của Báo Đông tây ở Hà Nội), ra mắt vào dịp Tết Nhâm Thân 1932. Sau đó chừng hơn một tháng, ở Sài Gòn, bài báo nói trên của Phan Khôi mới được đăng lại ở tuần báo Phụ nữ tân văn; bản đăng lại này bị kiểm duyệt bỏ mất trên 100 từ so với bản đăng lần đầu.
Nhà nghiên cứu Phan An Sa khá quyết liệt khi đề nghị xóa “án oan” về Phan Khôi, liên quan đến dịch thuật. Chuyện là, Phan Khôi dịch chữ pomme de terre (khoai tây) thành "khoai nhạc ngựa" trong truyện Một ông vua nước Cộng hòa, với chú thích rằng ông tránh chữ khoai tây vì chữ Hán gọi pomme de terre là mã - linh - thự. Nhưng lối dịch cắc cớ ấy do ông “cố ý”, như từng dịch chữ dinde (gà mái tây) thành "gà bừu". Tất cả chỉ để phản kháng thói quen hay sửa những chữ tiếng Tây, tiếng Tàu (sửa thuốc tây thành tân dược, chè tàu thành chè Trung Quốc...), nhưng viết bài phản đối thì các báo không chịu đăng. Vì thế, ông mượn chuyện dịch này để biểu lộ ý bực mình và mai mỉa chứ không phải “dịch lẩm cẩm” như một độc giả phê bình nặng nề. Những tư liệu này, nhà nghiên cứu Phan An Sa tìm thấy ở 2 mẩu ngắn lần lượt đăng trên tuần báo Cứu Quốc (Hà Nội) các số 2772 (ngày 5.8.1956) và số 2774 (ngày 19.8.1956).
Từ bước “khởi động” ở khía cạnh văn hóa dân tộc lần này, nhiều vấn đề khác liên quan đến lịch sử của nhân vật Phan Khôi sẽ được hé mở dần. Nhà sử học Dương Trung Quốc, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Khoa học lịch sử VN (đồng chủ trì hội thảo), khẳng định: Đây là bước tiến đáng khích lệ để tiếp tục làm rõ hơn những khúc ngoặt cũng như những đóng góp đối với nước nhà trong cuộc đời cụ. “Văn hóa là nền tảng, người có đóng góp vào văn hóa dân tộc thì không lý gì không yêu nước, không có những đóng góp ưu việt cho nước nhà. Sau hội thảo về văn hóa, chúng tôi thiết nghĩ cần phải có một hội thảo về Phan Khôi - một nhân vật lịch sử”.
Sẽ mở “hội thảo toàn diện” Nhà sử học Dương Trung Quốc cũng kiến nghị tỉnh Quảng Nam cần quan tâm bảo tồn, phát huy những di sản liên quan đến Phan Khôi, tập hợp những dữ liệu để cùng các nhà chuyên môn xây dựng bộ toàn tập về Phan Khôi đầu tiên, kể cả việc đặt tên đường Phan Khôi tại Quảng Nam (hiện TP.Đà Nẵng đã thực hiện). Hội Khoa học lịch sử VN dự kiến mở hội thảo về Phan Khôi với phạm vi nghiên cứu toàn diện hơn vào năm 2017 tại Hà Nội, nhân dịp 130 năm ngày sinh Phan Khôi. Ông Nguyễn Chín, Phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam, nhận xét hội thảo lần này đã góp phần đánh giá về những đóng góp của Phan Khôi trên lĩnh vực văn hóa dân tộc, giúp có thêm nhiều tư liệu quý và đánh giá khoa học có giá trị cao, toàn diện... |
Ý kiến “Phan Khôi là hiện tượng “kép”, có cả hoạt động sáng tác và phê bình, vừa mở đường vừa là chứng nhân, vừa khai phá vừa thúc đẩy, vừa là người anh hùng vừa đi ca ngợi người anh hùng, để lại những dấu ấn sắc nét trên dặm dài lịch sử phong trào Thơ mới 1932 - 1945”. PGS-TS Nguyễn Hữu Sơn, Viện Văn học Việt Nam “Ở góc độ một người bình dân, với chúng tôi, ông Phan Khôi là một người tự do, đủ đầy khí phách của một nhà trí thức, một nhà văn hóa. Cần nói nhiều hơn nữa về khí phách của một nhà văn hóa ở Phan Khôi”. GS Nguyễn Đăng Hưng “Với tư cách một nhà báo, Phan Khôi đã để lại một sự nghiệp viết đồ sộ, không chỉ ở nội dung viết, mà còn ở cách viết. (...) Ông không chạy theo việc mô tả sự kiện, mà chỉ chú ý đến những vấn đề xã hội hoặc văn hóa đằng sau sự kiện đó”. Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy |
Phan Khôi (1887 - 1959) quê làng Bảo An, xã Điện Quang, H.Điện Bàn (Quảng Nam), xuất thân trong một gia đình khoa bảng. Cụ thân sinh là phó bảng Phan Trân, Tri phủ Diên Khánh (Khánh Hòa) nhưng sau đó treo ấn từ quan về quê dạy học vì sự lộng hành của công sứ Pháp; mẹ là bà Hoàng Thị Lệ, con gái Tổng đốc Hoàng Diệu. Năm 1905, Phan Khôi tham gia các phong trào Duy tân, Đông du. Trong phong trào kháng thuế năm 1908, ông bị thực dân Pháp bắt và giam tại Quảng Nam đến năm 1914. Ra tù, ông hoạt động trên lĩnh vực báo chí và văn học ở Huế, Sài Gòn, Hà Nội...
|
Nguồn: Hứa Xuyên Huỳnh - TNO
NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)
LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.
THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.
HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...
BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.
NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.
HỒ THẾ HÀ Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.
TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.
TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.
HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.
NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)
LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)
VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)
NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.
BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.
PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)
HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.
PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.