Phan Huyền Thư, cây huyền cầm đau vùng sao sáng

16:09 29/08/2008
VĂN CẦM HẢI       (Nằm nghiêng - Thơ- Nxb Hội Nhà văn 5/2002)Trên đất Thư "viết buồn thành mưa". Dưới trời Thư "viết buồn thành gió". Giữa đời Thư "viết nỗi buồn sống".

Xứ viết của Phan Huyền Thư chẳng có hình hài tinh khôi những đoá hoa rực rỡ tuổi thanh xuân bởi dường như định mệnh tự trao cho mình một quyền được sống không yên ổn "nằm nghiêng xứ sở bốn mùa nhiệt đới, tự dưng nhói đau!". Ngày 19/2 sinh nhật, tôi nhận được thơ Thư, đêm ấy Paris của Apollinaire tự dưng đồng cốt một lời nhắn nhủ bên kia miền nhiệt đới, rằng Thư muốn xa rời dương thế trong ngày mình lên đời. Rất nhiều lần, Thư đã chết và cho đến bây giờ, sau bao lần vượt qua những rào cản âm u, Thư đã chết thực sự với Nằm nghiêng. "Tôi nằm mơ một đám ma người chết là tôi. Tôi đã chết" để nghiệm sinh những tiêu điều ý nghĩ, những u uất tràn lên cô đơn, những đạm bạc "tập tễnh về ăn giỗ mình". Mấy năm gắn bó, Thư tồn tại trong tôi như một chiếc bóng chìm dần tương lai, không ồn ào mà "nhẹ như tiếng vỗ cánh/ hèn mạt con bướm đêm thoát hiểm/ rong chơi rừng mưa". Rong chơi để nhìn thấy phiên bản của tình yêu "không còn trăng để tặng/ anh muốn em tin những sao trời" và bất giác "chẳng thấy mặt trời/ nhiều khi đơn độc/ muốn thức dậy cõi khác/ hình dung một nụ cười/ đưa sợi tóc lên ngậm miệng/ cũng đỡ nhớ niềm vui". Nhớ trong nỗi đoạn tuyệt bởi sự hoang đàng phơi lộ "đôi vú thông minh/ không cứu nổi cặp đùi dài ngu ngốc". Đành vậy, Thư "gõ mõ cầu siêu/ hồn phiêu diêu đèn nhang cửa ngỏ". Cái chết và sự cô đơn như "cơn bão cũ mùa đi không tan/ mùi hoàng lan và vết chuồn cắn lá" "nhớ mùa nào hoa cúc/ hộc lên vàng mắt bão/ ăn năn thuyền giấy đưa đám/ áo quan lót một cỗ lá ướt/ vết chuồn chuồn yêu nhau trước mưa!". Mong manh. Nặng nề. Buồn thảm. Trêu ngươi nhưng rất tục lụy, từng con chữ "lách qua khe cửa hẹp trong đầu/ vội vã ùa về với biển sâu" đời sống. Xứ viết của Thư hoang mang những cái chết miên man trên mỗi nẻo đường, cái chết thường trực khắp nơi và trở thành giao điểm của xác và hồn, chân thành và giả dối, chiêm nghiệm và hư không. "Đôi khi giữa lòng giếng cạn/ xác ếch khô còn vẳng lại/ ngây ngô tiếng đứt đuôi/ nong nong dậy thì". Không xác định, không lúc nào nghỉ ngơi ở những giao điểm thiện ác lập loè tính cách phải chăng là cái nhìn phản cảm của Thư về thân phận con người hiện đại, thời "nhớ ai gầm gào trong cổ họng/ rồi cười nửa rúc mặt đám đông/ xanh thì đỏ/ tím thì vàng/ váy ngắn thì chân phải cong/ một mình: đạo đức-cười thầm: sang trọng". Dọc theo những câu thơ không đều nhịp điệu ấy, có cảm giác Thư từng giây phút sòng phẳng tranh luận với chính bóng mình. Nhiều khi lên cao bởi khô khốc một tiếng thở dài đanh gọn, nhiều khi ảm đạm lại rực rỡ một màu mây đa đoan cốt cách. "Ba hồn bảy vía/ đồng bào di mộng/ ở đâu thì về/ thì về../ thì về..." bãng lãng "khí giao linh/ mưa xuân sinh hạ/ hài nhi thơ/ bay", "xác những phù du/ cánh mỏng bão hoàng hôn/ tôi ngồi đóng ván nát!". Thi đàn nước Việt đang muôn vàn "ảnh viện" thơ trẻ nhưng hiếm hoi mấy ai "ngọ nguậy trong đầu con mọt nghiến răng/ thèm ý mới" như Thư dẫu Nằm nghiêng vẫn chưa phải là một sự định hình rõ ràng. Bởi ý mới nôn nao câu chữ nên Thư lưu vong và từ chối khắp nơi kể cả với không gian trải nghiệm của mình. " Hốc đá nhỏ xíu cũng trăng sao/ lấp lánh/ cho tôi nhìn những con bọ gậy tung tăng/ tôi biến/ sáng mai thức dậy/ con bọ-gậy-đổ-vỡ của tôi đã thành muỗi bay đi". Biết bao giờ Thư dứt bỏ được ý tưởng để thiên thai từng điệu chơi, biết bao giờ lý luận tàn phai cho "con dơi đập cánh/ không ẩn nấp cùng lũ chuột chù" để mặc cảm lẫn vinh vang vắng vẻ cuộc đời này. Trong tôi, Thư chẳng bao giờ là nhà thơ trẻ hay già, là mới hay cũ, đơn giản Thư đã mang đến và làm cho cuộc đời thêm phong vị với xứ cảm của mình. Xứ cảm ấy chẳng bao giờ hoàn thiện bởi nó không ngừng triệt tiêu từng ngày để sinh ra những chân trời mới. Đừng bao giờ dồn ép không gian, nhất là không gian thơ "một tiếng Thạch Sùng" định hướng trong đêm. "Có lúc/ người đánh tôi bằng lưỡi/ đánh tôi bằng hoa hồng/ đánh tôi bằng cái nhìn âu yếm...xin đừng làm chữ tôi đau!", "Đừng ai gọi/ hãy coi tôi như vắng/ căn phòng ngổn ngang/ mạng nhện không người...đừng nghĩ đến/ bằng nén hương lòng/ mịt mù kỷ niệm/ không thoáng nỗi mùi trầm/ tôi tự mình/ lồng ảnh vào khung", "Đóng vào không/ tìm trao nơi trang trọng?". Từ tuổi thơ cho đến lưng chừng thanh xuân, người con gái ấy vẫn chạnh lòng "tôi nhường tôi/ cúi đầu về không/ bước quay lưng hối hả/ nhợt nhạt rong chơi". Cúi đầu về không nào đâu chỉ "thất vọng tạm thời", cúi đầu về không như một dáng lưu vong bước về chợ tay không, ngực không, hoá thân trong tiếng cười nhân gian quên đạo quên đời. Cúi đầu về không trong một đêm xa vời đất cố đô "nhà hàng Thiên Đường hôm nay nghỉ sớm/ độc ẩm quán Âm Phủ trọ hết phòng/ cáo thị Phù Vân tên bỏ ngỏ". Chai rượu mang đi, Thư mù vào đêm, bất chợt tôi thoảng thấy bóng dáng người cha của Thư-tác giả của bản tình ca ru "con tàu Việt Nam đi suốt bốn mùa xuân, qua đèo Hải Vân mây bay đỉnh núi" từng mênh mang những chiều bệnh viện vớt tuổi thơ tôi trở lại với đời- bỗng nhiên từ bên kia thế giới trở về trong dáng nghiêng buồn của người con gái. Trên con tàu xuân sang ấy, người con gái - bằng thơ- đã hát lên những điệp khúc "mùa đông nằm nghiêng trên thảm gió mùa" mà ngày trước người ta chưa hoặc đã, hoặc không viết. Từ trên cao, từ những nơi xa xôi của thế giới trái đất trở xoay, từ huyền bí của thế giới tâm linh nhìn lại có khi nào con người tồn tại một phương thẳng đứng bởi con người sinh ra là "viết buồn thành gió/ lang thang cánh đồng/ con trâu già ức chế luống cuối cùng/ đường trách nhiệm lên mặt cày nhăn nhở" và mãi mãi "nằm nghiêng khe cửa ùa ra một dòng ấm cô đơn" giữa "bầu trời riêng của em/ đương nhiên/ đau vùng sao sáng" âm vang một cây huyền cầm không dây vì đã có thơ, khổ đau và niềm hy vọng là âm thanh vĩnh cửu nhất trên mọi miền sáng tạo của con người!
2002
VCH

(nguồn: TCSH số 162 - 08 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ HUY QUANGVào ngày 19/5/2010 này, cả nước ta sẽ tưng bừng Kỷ niệm 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân Văn hóa thế giới, nhà thơ Hồ Chí Minh, một người Việt Nam đẹp nhất.

  • XUÂN CANG(Trích Chân dung nhà văn soi chiếu bằng Kinh Dịch)Nhà văn Nguyễn Sinh Tuân sinh ngày 10 - 7 - 1910 tức năm Canh Tuất (Nhà văn Việt Nam hiện đại. Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 1997).

  • HOÀNG CẦM(cảm nhận qua tập thơ “Đồng dao cho người lớn” của Nguyễn Trọng Tạo)Hình như đã lâu lắm, hoặc như chưa bao giờ tôi bắt gặp trên đời này một người mà chỉ qua một buổi sơ ngộ tôi đã thấy quý và yêu... như anh ta.

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINHI.“Ta rồi chết giữa mùa màng”(*).

  • TRỊNH MINH HIẾU(Đọc Tiền định của nhà văn Đoàn Lê NXB Hội Nhà văn 2009)Tác phẩm “Tiền định” của nhà văn Đoàn Lê vừa được Công ty cổ phần sách Bách Việt đưa vào chung khảo Giải thưởng Bách Việt lần thứ nhất.

  • THANH TÙNGLarry Rottmann sinh ngày 20-12-1942 ở tiểu bang Missourri. Ông thường nói: tôi sinh khác năm nhưng cùng ngày với ngày thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Larry Rottmann hay để ý tìm kiến những điều mà cuộc đời ông gắn bó, liên quan đến Việt Nam.

  • MINH KHÔI…Hải Bằng là nhà thơ cách mạng tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ngày mới vào Việt Minh anh được phiên vào Trung đoàn 101 nổi tiếng vùng Trị Thiên, hành quân qua khắp các chiến khu Dương Hòa, Hòa Mỹ, Ba Lòng, Cam Lộ, Do Linh... Rồi anh sang chiến đấu tại mặt trận Lào, về Thanh Hóa… Trong lai cảo thơ của anh để lại còn có những trường ca chưa in như “Đoàn quân 325”, “Bài thơ rừng hoa Chăm pa”, “Lòng em theo tiếng khèn”…

  • NGÔ THỜI ĐÔNSống một đời không dài lắm và đón nhận quá nhiều nỗi phiền ưu vì đất nước, dân tộc, thời cuộc, gia tộc và bản thân song với lòng yêu đời, thương người sâu sắc, Miên Thẩm đã để lại một sự nghiệp trứ tác đồ sộ, không thua kém các đại gia trong văn chương trung đại của dân tộc.

  • NGUYỄN NHÃ TIÊNNgồi chung một chuyến xe trong một lần cổ ngoạn Mỹ Sơn, nhà thơ Hồng Nhu trao cho tôi tập thơ "RÊU ĐÁ", tập thơ thứ tư của anh do Nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản năm 1998.

  • ĐỖ NGỌC YÊN(Nhân đọc TRONG CĂN NHÀ SÀN BÉ NHỎ)(*)

  • ĐỖ ĐỨC HIỂU Trong hành trình "Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp", tôi thấy một giọt vàng rơi vào lòng mình, giọt vàng ròng ngời sáng. Đó là truyện ngắn của anh. Anh tái tạo truyện ngắn ở Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ XX này và nâng nó lên một tầm cao mới: thơ ca và triết lý, nó truyền thống và hiện đại, phương Đông và toàn nhân loại.

  • THÁI DOÃN HIỂUĐể nối hai bờ suy tưởng tâm linh và vũ trụ, nhà toán học Lê Quốc Hán (*) đã bắc một chiếc cầu thơ.

  • HÀ VĂN THÙY(Nhân đọc Văn học - phê bình, nhận diện của Trần Mạnh Hảo)

  • LÊ VIẾT THỌ(Đọc "Ngọn núi ảo ảnh" - bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường - NXB Thanh niên tháng 1-2000)

  • ĐỖ NGỌC YÊN Phế đô là một trong những cuốn tiểu thuyết đương đại của Trung Quốc,  do Tạp chí Tháng Mười xuất bản từ năm 1993. Ngay sau đó nó đã có số bản in đạt vào loại kỷ lục, trên 1. 000. 000 bản tiếng Trung Quốc.

  • VƯƠNG HỒNG HOAN

    "Trăng Thương Bạc" là tập thơ của 47 hội viên của câu lạc bộ Hương Ngự do Nhà xuất bản Thuận Hóa in kỷ niệm lần thứ 25 ngày giải phóng Huế.

  • NGUYỄN ĐĂNG MẠNHNguyễn Khải ở trong Nam, ít khi tôi được gặp. Tôi rất thích nói chuyện với anh. Đúng ra là tôi thích nghe anh nói.

  • PHẠM XUÂN HÙNG(Về cuốn Đọc văn - Tiểu luận - Phê bình của Phạm Phú Phong, NXB Thuận Hóa, 2008)

  • HÀ VĂN LƯỠNGChingiz Aitmatốp thuộc trong số các nhà văn lớn được độc giả nhiều nước trên thế giới biết đến. Tác phẩm của ông thể hiện những vấn đề đạo đức nhân sinh, nhân loại. Ngoài việc sử dụng các đặc điểm thời gian, không gian nghệ thuật, cấu trúc, giọng điệu tác phẩm... nhà văn còn đưa huyền thoại, truyền thuyết vào tác phẩm như là một thi pháp biểu hiện mang tính đặc trưng của ông.

  • TÔ NHUẬN VỸ(Nhân đọc một số bài tranh luận về cuốn THƠ ĐẾN TỪ ĐÂU)