Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa

10:42 15/10/2008
TÙNG ĐIỂNLTS:  “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.


Gần nửa thế kỷ đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, nhân dân Việt đã tạo dựng cho mình một nền văn học nghệ thuật cách mạng. Gắn với nền văn học nghệ thuật cách mạng, chúng ta đã có những tác giả và nghệ sĩ lớn của các chuyên ngành Văn học, Mỹ thuật, Âm nhạc, Sân khấu, Điện ảnh, Múa, Nhiếp ảnh, Kiến trúc, Văn nghệ dân gian.. Có những tác giả đã hy sinh trong hai cuộc kháng chiến, nhưng chỉ một thời gian hoạt động văn học nghệ thuật ngắn ngủi, họ và những tài năng khác đã để lại những tác phẩm gắn bó với chặng đường lịch sử, cách mạng hào hùng của dân tộc. Có thể nói, những tác phẩm văn học nghệ thuật về lịch sử, kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ mãi mãi là viên ngọc sáng chói, lấp lánh mang dấu ấn, trí tuệ và cả xương máu của các thế hệ văn nghệ sĩ hoà mình vào lịch sử dân tộc, cách mạng và kháng chiến. Nếu nhìn nhận ở góc độ lý luận trong sáng tác, thì một điều hiển nhiên, như tự các tác phẩm đã nói lên toàn bộ mong muốn, tư tưởng của người sáng tác: Dùng văn học nghệ thuật phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước. Lấy bối cảnh, mẫu nhân vật từ ngay trong đời sống chiến đấu, lao động xây dựng đất nước làm trung tâm để xây dựng tác phẩm. Có thể nói, một thời gian dài xuyên suốt, đến tận bây giờ, đại đa số các văn nghệ sĩ vẫn lấy phương pháp sáng tác ấy làm nền tảng để xây dựng tác phẩm. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ ở hai miền Nam Bắc, chúng ta có thể thấy trong tác phẩm văn học nghệ thuật của các chuyên ngành, từ bối cảnh lịch sử, xã hội, hình tượng nhân vật hầu như được lấy từ ngoài đời, các nhân vật được coi là trung tâm từ giai cấp công nhân, nông dân, bộ đội và có một số ít tác phẩm được lấy từ người trí thức. Một cuộc sống thật sinh động, một con người, một tập thể dũng cảm chiến đấu hoặc lao động quên mình... trong cuộc sống đã khơi nguồn sáng tạo cho các tác giả để rồi, các cá nhân, tập thể ấy bước vào tác phẩm văn học nghệ thuật. Và đến khi, từ trang sách, từ bức tranh, từ phim ảnh, âm nhạc, vở diễn bước ra, đến với công chúng, các cá nhân, tập thể ấy trở thành lung linh hơn, có sức hấp dẫn, có sức tập hợp, dẫn dắt các thế hệ dám sống và chiến đấu, dám đi vào những nơi khó khăn để lao động, cống hiến. Sức hút của tác phẩm văn học nghệ thuật ngót nửa thế kỷ của các thế hệ tác giả đã cổ vũ, động viên, tạo dựng tình cảm và đời sống tinh thần làm nên đời sống văn hóa của một xã hội mới.

Cuộc chiến đấu hào hùng đã trở thành lịch sử. Những năm tháng lao động quên mình vì chiến trường, giải phóng đất nước đã lùi xa. Cuộc sống đang ngày càng phát triển. Chúng ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Chúng ta đã bắt tay, tìm kiếm bạn bè trên toàn thế giới để nhanh chóng đưa đất nước đi lên. Mọi vùng miền trên khắp đất nước đang chuyển mình. Hơn 20 năm qua, công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn. Thực tế đời sống đã đẩy lùi được cách nhìn hiện thực đời sống xã hội lệch lạc, không đúng với bản chất xã hội. Những tác phẩm có nội dung xa lạ, đề cao hình thức, thể hiện cực đoan, xa lạ với thẩm mỹ của đại bộ phận công chúng không được đón nhận. Nhưng để các tác phẩm văn học nghệ thuật đến với công chúng, trở thành đời sống tinh thần của các bộ phận trong đời sống xã hội, những người lao động mới, đang đặt ra cho giới văn học nghệ thuật, phải có một cách nhìn nhận mới về xã hội nhằm tạo ra những tác phẩm có nội dung, hình thức gắn bó với đời sống thực tại. Sức sống của các tác phẩm văn học nghệ thuật trong đời sống xã hội, chính là ở lĩnh vực tư tưởng, đạo đức và lối sống. Đấy cũng là thế mạnh của văn học nghệ thuật. Xa rời điều đó, có nghĩa là tác phẩm văn học nghệ thuật cũng rời bỏ luôn sức mạnh và chức năng cao đẹp của mình.

Những câu ca dao, tục ngữ khuyết danh, những bài dân ca các vùng miền có từ xa xưa vẫn có sức sống và sự truyền cảm mãnh liệt, dẫn dắt, nuôi dưỡng đời sống tinh thần của bao thế hệ người Việt Nam, vẫn là những câu ca dao tục ngữ với những bài dân ca nối tiếp đạo lý, tình cảm đã trở thành lối sống văn hoá của người Việt. Bởi vậy, vấn đề đặt ra cho tác giả của các chuyên ngành văn học nghệ thuật trong giai đoạn hiện nay là: Muốn có tác phẩm đi vào cuộc sống, được công chúng đón nhận, đòi hỏi các tác giả phải thâm nhập đời sống, nhất là đối với các tác giả làm các công tác hành chính, nghiên cứu tỉnh tại, do nhiều năm vì công việc, vì điều kiện sức khoẻ và điều kiện sống đã bỏ lỡ thực tế xã hội đang thay đổi, khiến mình như trở thành lạc hậu. Mặt khác, muốn nắm bắt được đời sống, muốn nhận thức được xã hội, đòi hỏi tác giả phải học, phải có thêm kiến thức mới để có thể đi sâu được vào đời sống xã hội, mới tìm hiểu được đời sống các tầng lớp xã hội đương đại mà ở dưới gốc là các tầng lớp nhân dân lao động. Cái lõi quyết định cho sự phát triển kinh tế, văn hoá xã hội là đội ngũ những người công nhân, nông dân, trí thức mới đang có những biến chuyển lớn về cách thức lao động, sinh sống cũng như về trình độ khoa học kỹ thuật, về trình độ tư duy, hiểu biết trong thời kỳ thế giới đang chuyển giao công nghệ, của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngay trong  thực tế xã hội đang có nhiều chuyển biến lớn, cũng đã có sự phân hoá: Người có trí thức - người không được học hành, đào tạo; người giàu - người nghèo; người chủ - người làm thuê. Vai trò của các tầng lớp ấy trong xã hội như thế nào? Ảnh hưởng của họ trong đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá ra sao? Đấy là vấn đề lớn mà tác giả của các chuyên ngành văn học nghệ thuật rất đáng quan tâm, gần như khác hẳn với những gì đã quen tư duy, quen làm. Đành rằng, trước đời sống xã hội như vậy, các tác giả có quyền tự do sáng tác, tự do nghiên cứu, sưu tầm các công trình văn học nghệ thuật dân gian lưu truyền trong nhân dân, đem đến cho đời sống xã hội. Nhưng tự do sáng tạo, tự do công bố những công trình nghiên cứu, sưu tầm còn phải nghĩ đến trách nhiệm xã hội của tác giả. Dù tác giả có sử dụng mọi phương pháp, mọi phong cách sáng tác, mọi sự tìm kiếm, chọn lọc vốn văn hoá, vốn văn học nghệ thuật còn đang bị chìm lấp trong đời sống xã hội, thì cái đích vẫn là đáp ứng đời sống tinh thần lành mạnh, bổ ích cho công chúng, cho sự tiến bộ xã hội, không thể chỉ phục vụ cho ý thích cá nhân của tác giả.

Chính vì vậy, những người đứng đầu của các Hội Văn học nghệ thuật, những tác giả của các chuyên ngành văn học nghệ thuật đã từng có nhiều tác phẩm, có nhiều kinh nghiệm trong sáng tác, trong nghiên cứu, sưu tầm các công trình văn học nghệ thuật, chúng ta sẽ cùng nhau đưa ra những giải đáp cho các vấn đề trong sáng tác: Xã hội mới đang đặt ra những vấn đề gì cho sáng tác văn học nghệ thuật? Liệu có còn khái niệm về một “nhân vật” trung tâm không? Nếu có, họ là ai? Là người công nhân? Hay người nông dân? Người trí thức? Tầng lớp thương nhân mới hình thành? Hay toàn thể con người thuộc mọi lĩnh vực lao động trong xã hội? Bởi có nhận thức được điều này, mỗi tác giả mới có thể chọn đề tài, chọn khu vực của thực tế đời sống để thâm nhập, sáng tác. Một câu hỏi “xưa như trái đất” nhưng hình như vẫn còn đặt ra là chúng ta sáng tác cho ai? Và có hay không có câu hỏi nữa là: Liệu tôi có quyền sáng tác cái mà tôi thích và cho riêng tôi không? Nếu có thì giới hạn cái tôi ấy đến đâu?

 


Một đặc điểm của văn học nghệ thuật nước ta là tính thống nhất và đa dạng bao gồm vốn văn học nghệ thuật của 54 dân tộc anh em. Vì vậy, vốn văn nghệ dân tộc của chúng ta rất phong phú. Trong tìm kiếm, sáng tác để hoà nhập thời hiện đại, vốn văn học, cũng như các chuyên ngành khác: Âm nhạc, Múa, Mỹ thuật, Sân khấu, Kiến trúc của các dân tộc anh em đóng góp một phần rất quan trọng, với những sắc thái từ Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên đến các tỉnh Tây Nam Bộ làm giàu bản sắc chung của dân tộc, gợi sự tin yêu của công chúng đối với văn học nghệ thuật. Chính vì vậy, trong những năm gần đây, để phục vụ, tìm hướng sáng tác cho các chuyên ngành các Hội Văn học nghệ thuật từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố đã có nhiều cuộc hội thảo tập trung vào vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, trong quá trình toàn cầu hoá về kinh tế đang diễn ra và càng sôi động hơn ở nước ta, nhất là sau Hội nghị APEC được tổ chức tại Hà Nội năm 2006. Những cuộc trao đổi về bản sắc dân tộc, dân tộc và ngoại tộc đang thu hút sự suy nghĩ, tìm tòi của nhiều văn nghệ sĩ. Trong các cuộc hội thảo, nhiều văn nghệ sĩ đã rất quan tâm nói đến quá trình tìm hiểu, nghiên cứu phương pháp sáng tác trong các tác phẩm cổ điển, dân gian của dân tộc. Có tác giả nghiên cứu viết cả cuốn sách dày để giải mã các phương pháp sáng tác của các tác giả ký, truyện ngắn, tiểu thuyết thời Trung đại. Và đấy, cũng có thể xem là những mô hình sáng giá cho chúng ta tham khảo để tìm tòi, sáng tạo ra cái mới, trong sự mở rộng giao lưu với các trào lưu văn nghệ từ khu vực Đông Nam Á, đến các nước trên thế giới.

Từ năm 1999 đến nay, lĩnh vực văn học nghệ thuật được Chính phủ quan tâm hỗ trợ. Nhất là từ năm 2004, cả 64 Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, thành phố cũng được nhận hỗ trợ hằng năm. Chúng ta đã thấy nhiều tác phẩm được phát hành, triển lãm, biểu diễn đã có nhiều cố gắng đi sâu vào sự thật của đời sống xã hội, đi sâu vào nội tâm con người. Dù ở lĩnh vực chuyên ngành văn học nghệ thuật nào, các tác phẩm của các thế hệ tác giả đều có hướng tìm về giá trị tinh thần và văn hoá dân tộc. Một số tác giả trẻ cũng đã mạnh dạn thể hiện phương hướng của cuộc sống hiện đại thông qua những vở kịch ngắn, phim ngắn, những cuộc triển lãm, sắp đặt...
Trong những năm qua, nhất là mấy năm gần đây, từ khi có hỗ trợ kinh phí của Chính phủ cho việc sáng tạo tác phẩm, sưu tầm nghiên cứu công trình văn học nghệ thuật, đề tài của các tác phẩm văn học nghệ thuật được mở rộng hơn. Không những vậy, ngay từ nội dung Quyết định hỗ trợ của Thủ tướng Chính phủ, đến bản Thông tư hướng dẫn thực hiện kinh phí cho việc hỗ trợ tác phẩm, công trình nghiên cứu, sưu tầm văn học nghệ thuật đã gợi ý về một số đề tài nên được tập trung hỗ trợ, từ đề tài lịch sử dân tộc, đề tài cách mạng và hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ; đề tài thanh thiếu nhi; đề tài dân tộc thiểu số và bao quát vẫn là đề tài về cuộc sống hiện nay. Bất cứ đề tài nào nói đến con người Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử là tác giả đều có thể “với tay” đến và được Chính phủ khích lệ. Đặc biệt là những mảng đời sống ở các khu vực cuộc sống mang tính trọng điểm, nhạy cảm, thu hút nhiều tâm trí, tài lực, có khả năng mang lại sự đổi thay lớn lao cho diện mạo của đất nước, tạo dựng một cuộc sống tươi đẹp, làm nền tảng cho một đời sống tinh thần, văn hoá của thời đại. Những khu vực như thế có ở khắp mọi nơi trên đất nước ta: Thuỷ điện Sơn La; Thuỷ điện Nà Hang ở Tuyên Quang; khu chế xuất Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Hà Tây, Hưng Yên, Bình Dương, Phú Yên... Đường Hồ Chí Minh chạy dọc dãy Trường Sơn đi qua hầu hết các tỉnh, thành phố sẽ là huyết mạch giao thông, tạo sự sống cho đất nước và đem tiến bộ xã hội đến các bản làng người dân tộc thiểu số. Rồi các thành phố lớn đang được mở mang, tạo đà phát triển kinh tế xã hội. Chúng ta có thể tổ chức cho cá nhân, tập thể tác giả đi thực tế. Có chuyên ngành, cần thiết để có tác phẩm lớn, không chỉ hỗ trợ một năm, có thể hai năm và có thể kéo dài đến hết giai đoạn hỗ trợ (2010), nhưng phải có tác phẩm lớn. Tỉnh, thành phố nào mạnh về chuyên ngành nào, ta đầu tư tập trung về chuyên ngành đó. Thiếu tác giả chuyên ngành, ta có thể mời thêm để phối hợp với các Hội bạn trong khu vực. Trên thực tế, có nhiều tác phẩm được hình thành từ nhóm tác giả. Nhất là việc nghiên cứu, sưu tầm, tập hợp tài liệu cho một công trình văn nghệ dân gian, loang ra diện rộng, trên nhiều tỉnh cũng rất cần được sự phối hợp không chỉ của Hội, mà còn của từng tác giả. Hy vọng rằng trong một vài năm tới, chúng ta sẽ có mùa bội thu về tác phẩm văn học nghệ thuật. Hy vọng rằng chúng ta sẽ có những cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn, những bức tranh, tấm ảnh, những ca khúc, điệu múa, công trình kiến trúc... ghi dấu ấn của một giai đoạn phát triển xã hội có một không hai trong lịch sử dân tộc, những công trình nghiên cứu, sưu tầm văn nghệ dân gian mang đậm nét văn hoá dân tộc có từ nhiều thế kỷ trước, nhuần nhuyễn trở về đời sống hiện đại.

Hơn 10 năm qua, các Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, thành phố trên cả nước đã có bước trưởng thành rõ rệt về tổ chức, tập hợp lực lượng văn nghệ đi vào hoạt động sáng tác. Các cấp uỷ Đảng và chính quyền tỉnh, thành phố ngày càng quan tâm, hoạt động Hội ngày càng được mở rộng và đi vào nền nếp. Có kinh phí hỗ trợ của Chính phủ, hầu hết các Hội đã tổ chức được nhiều trại sáng tác, những đợt đi thực tế cho hội viên về huyện, xã, làng, bản; đến các vùng kinh tế trọng điểm trong tỉnh và liên kết với các Hội bạn tổ chức hội thảo, sáng tác, nghiên cứu, sưu tầm, tổ chức trại sáng tác, hoặc cho hội viên được đi rộng tới các địa phương bạn. Các Hội cũng đã rất chú trọng khuyến khích sáng tác và nghiên cứu về lịch sử dân tộc, về các danh nhân văn hoá, các vị anh hùng dân tộc đánh giặc ngoại xâm các đời trước ở địa phương. Nhiều tỉnh, thành phố đã có phát hiện mới, một số tác phẩm được chú ý. Các Hội cũng đã tổ chức được các cuộc thi, các đợt chấm và trao giải thưởng văn học nghệ thuật. Trong những năm gần đây, tác phẩm về cuộc sống hiện tại ở các tỉnh, thành phố ngày càng nhiều và chất lượng được nâng lên. Nhiều tác giả đã viết tiểu thuyết, một số tác phẩm văn học, mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu có giá trị đã vượt ra ngoài, được giới thiệu rộng rãi và đoạt giải thưởng của Trung ương. Tin chắc trong thời gian tới các tác giả chuyên ngành ở các Hội sẽ có nhiều tác phẩm tốt, đạt chất lượng cao hơn nữa.
T.Đ
(nguồn: TCSH số 222 - 08 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.

  • THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.

  • NGUYỄN THỊ MỸ LỘCLà người biết yêu và có chút văn hóa không ai không biết Romeo and Juliet của Shakespeare, vở kịch được sáng tác cách ngày nay vừa tròn 410 năm (1595 - 2005). Ngót bốn thế kỷ nay Romeo and Juliet được coi là biểu tượng của tình yêu. Ý nghĩa xã hội của tác phẩm đã được thừa nhận, giá trị thẩm mĩ đã được khám phá, hiệu ứng bi kịch đã được nghiền ngẫm... Liệu còn có gì để khám phá?

  • NGUYỄN VĂN HẠNH1. Từ nhiều năm nay, và bây giờ cũng vậy, chúng ta chủ trương xây dựng một nền văn nghệ mới ngang tầm thời đại, xứng đáng với tài năng của dân tộc, của đất nước.