Phá Tam Giang nhìn từ đầm chim Quảng Thái

15:27 02/06/2008
Chúng tôi đi thăm đầm chim Quảng Thái, theo ông Trần Giải, Phó chủ tịch huyện Quảng Điền.

Thuyền rời bến Vĩnh Tu, ông Trần Giải nói: "Cả phá Tam Giang có bao nhiêu nhà chồ tôi không nắm hết, nhưng riêng xã Quảng Ngạn còn một cái đúng với nghĩa của nó: cổ kính, kiên cố; chúng ta nên đến thăm đó trước".
Thuyền máy chạy chậm dần chậm dần lách qua bao nò sáo - một trong những nghề đánh bắt tôm cá chủ yếu trên phá Tam Giang. Thuyền ngoặt rẽ phải và cái nhà chồ đã hiện ra. Đoàn chúng tôi đột ngột đổ bộ lên đó. Nói đột ngột là nói về phía khách tham quan còn phía chủ ngôi nhà chắc chẳng đột ngột chút nào bởi khách thường xuyên tới thăm. Hễ có thuyền khách lạ ngoặt vào là chủ nhà chuẩn bị ấm chén tiếp khách.
Ông bà Phan Trai quê làng Phong Lao - Quảng Thái qua nhiều đời làm nghề chài lưới trên phá. Đời ông ông cũng đi theo con nước, con cá mà quyết định đóng chốt Quảng Ngạn ở bên này phá. Buổi đầu là làm nhà chồ tạm cùng với thuyền lưới làm nghề sinh sống. Khi vợ chồng ông sản sinh một mạch mười đứa con (4 trai, 6 gái) thì ông bà dốc hết vốn liếng làm nhà chồ kiên cố: nhà rường ba gian, cột lim đóng trụ.
Chủ, khách tay bắt mặt mừng chuyện trò rôm rả. Ông bà Trai khoe: con gái đầu đã có cháu hiện làm việc ở Sài Gòn. Đứa con trai kế chị vừa tròn 30 tuổi cũng làm việc trong ấy, nó mới in tập thơ đầu tay ở nhà xuất bản Trẻ (tác giả Phan Trung Thành).
Tôi quan sát ngôi nhà chồ. Nói là cổ kính nhưng thấy chủ nhà đã thay đổi nó rất nhiều qua thời gian: nhiều cột gỗ lim đã mục và đã được thay bằng cột gỗ dầu (cột điện thời ngụy thải ra và ông mua lại). Nhiều cột khác, ông xử lý bằng bê tông cốt thép. Đó là ngôi nhà chồ chính. Con cái ngày một đông. Ông Trai nới thêm một ngôi nhà chồ phụ thì cơn đại hồng thủy cuối năm 1999 đã nuốt chửng. Ông bà Trai còn nhiều con ăn học nên không đủ sức làm lại. Ông bà nghĩ: nhà chồ chính đã trụ được qua cơn thử thách, giờ chỉ sắm thêm thuyền.
Nhìn cơ nghiệp của ông Trai, cuộc sống gia đình ông hơn xưa là cái chắc. Nhờ có chính sách khuyến ngư, ông đấu thêm đất chắn sáo nuôi tôm cá, nuôi vịt đàn. Ngay dưới ngôi nhà chồ của ông, ông đặt nhiều viên gạch lắp xắp nước. Đàn gà đứng trên các viên gạch ấy chờ đàn cá con bơi vào là chúng thi nhau mổ xuống tóp tóp. Nguồn lợi như là vô tận. Nuôi gà như thế thì gà mau lớn mau béo là phải.
Thuyền lại nổ máy vượt phá theo hướng tây bắc đưa chúng tôi tới thăm đầm chim Quảng Thái. Sau hai giờ đồng hồ, thuyền dừng lại trước đập Cửa Lác (còn gọi là Cửa Rào, Cửa Nịu). Cửa sông Nịu cạn, thuyền lớn chúng tôi không vào được và sẽ có thuyền nhỏ Quảng Thái ra đưa tiếp chúng tôi vào xã.
Và chúng tôi ngồi đợi.
Đầm chim đâu?
Giữa tháng sáu nắng chang chang. Ngồi trên thuyền mà vẫn nóng. Chúng tôi không thấy chim chóc đâu cả. Quanh đập Cửa Lác, những "nét đầm quê" ẩn hiện chấp chới tuyệt vời trên sóng nước.
Đó là những hình thuyền, hình tam giác, hình cánh vạc bay...
Chúng tôi vẫn ngồi đợi trên thuyền trước đập Cửa Lác.
Nhớ lúc ở nhà chồ ông Phan Trai, nhìn đàn gà mổ cá dưới nước thì tôi có thể nghĩ rằng: phá Tam Giang là cả một sân chim! Những đàn ngỗng trời, vịt trời sà xuống giữa phá thì thành sân chim rồi! Nhưng đại đa số các loài chim không kiếm ăn được vùng ngập nước sâu (phá Tam Giang nơi sâu nhất gần 10 mét). Loài diệc, loài cò chân dài cũng chỉ kiếm ăn quanh bờ. Bởi vậy, lòai chim cũng như loài người tìm nơi trù phú mà ở. Nhưng con sông đưa phù du về phá Tam Giang tạo nên những đầm chim là điều hiện hữu.
Phía bắc phá - nơi mà tôi đang muốn nói tới đây là vùng phù sa màu mỡ nhờ hai con sông Nịu, sông Ô Lâu đưa về Quảng Thái. Phá Tam Giang từ đây xoay một vòng cung ra hướng bắc rồi đông bắc, thì gặp các xã có đất đầm: Phong Chương, Phong Bình, Điền Hương (giáp huyện Hải Lăng - Quảng Trị), Điền Lộc, Điền Môn, Điền Hòa, Điền Hải (thuộc huyện Phong Điền) rồi vòng vô Quảng Ngạn, Quảng Công, Cửa biển Thuận An.. Từ Quảng Ngạn sang Quảng Thái là cách phá, có nghĩa là thuyền chúng tôi đã vượt phá Tam Giang! Tới đây, những tên đất tên làng đọc lên nghe rất thú vị: Thủy Nịu, Trằm Vịnh, Trằm Ngang, Trằm Nẩy, Trằm Dét (Trằm có nghĩa là vùng đất sâu xuống, lõm xuống như đầm lầy) với những khe nước dọc ngang như kênh rạch vùng đồng bằng sông Cửu Long: Cửa Lác, rào Nam Giảng, hồ Bình Hồ, kênh Cộ, kênh Mới, kênh Lai Hà, kênh Đông Hồ... Men phá Tam Giang từ đây trở vào thì gặp các vùng trù phú như Lợi, Sịa, Sình... những cái tên như đã vang lên lời chao chát của những bầy chim trong lòng đầm, bên nội đồng đâu đó.
Chim là một hệ thống động vật rất đa dạng, có nhiều loại. Đáng chú ý nhất là sâm cầm (le le) mà dân ca miền Trung bao đời ngợi ca "thương chồng nấu cháo le le, nấu canh bông lý nấu chè hạt sen" rồi đến cò, vạc, vịt nước, ngỗng trời, đòm đòm, đấm đấm, đà lả, ó, mặt cắt, cá xám, cú mèo, bồ chao, cheo hót, cà cưỡng, diều hâu, bìm bịp, chim khách, chim chích, sẻ, chim sâu, chìa vôi, vàng nghệ, gõ mõ, lọ nghẹ, tời lơi, sột sột, đỏ mồng, đỏ mỏ, quạ đen, quạ khoang, héc, chuốc chuốc (quốc quốc, đỗ quyên)...
Tháng 7 năm 1998, một hội thảo khoa học về "quản lý và bảo vệ đất ngập nước ven biển Việt Nam" do IUCN - Văn phòng công ước RAMSAR tại Việt Nam, Cục Môi trường và Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức với sự tham gia của nhiều tổ chức quốc tế cùng các địa phương có đất ngập nước ven biển Việt Nam. Trong báo cáo về vùng đất ngập nước phá Tam Giang - Cầu Hai (vùng được đề xuất chọn lựa làm khu bảo tồn đất ngập nước theo công ước RAMSAR) tại hội thảo này đã có nhận định rằng: những kết quả khảo sát mới đã cho phép bổ sung một danh mục chim khá phong phú. Trong đó có 34 loài di cư, 36 loài định cư, 28 loài có giá trị kinh tế cao, 25 loài được ghi trong danh mục bảo vệ nghiêm ngặt của cộng đồng châu Âu và một lòai ghi trong sách đỏ Việt Nam.
Chim nước tập trung mật độ cao thành sân chim ở ba khu vực cửa sông Ô Lâu, sông Truồi và đầm Sam. Vào mùa đông số lượng có thể lên đến 2 vạn con. Người ta đã từng bắt gặp những đàn ngỗng trời 500 con, vịt trời 1000 con, đặc biệt sâm cầm có đàn 2000 con tới 3000 con. Riêng sân chim Quảng Thái nó tập trung ở cánh đồng Lai Hà và khu cồn nổi, ruộng ô đầm trên phá Tam giang thuộc địa phận Phong Lai - Lai Hà.
Các loại chim ở vùng ngập nước đầm phá Tam Giang - Cầu Hai được ghi trong danh mục bảo vệ nghiêm ngặt của cộng đồng Châu Âu:
- Diệc lửa, Cò trắng, Ó lá, Cắt lưng hung, Choi choi nhỏ, Choi choi khoang cổ, Chắt đốm đen, Chắt bụng xám, Chắt nhỏ, Nhạn đen, Bòng chanh, Nhạn bụng trắng, Chìa vôi vàng, Chìa vôi trắng, Chim manh lớn, Bách thanh, Bách thanh nhỏ, Chích đầu nhọn mày đen, Chích đầu nhọn phương Đông, Sẻ đồng ngực vàng...
Thức ăn các loại chim ưa thích là côn trùng trên khô và động vật thủy sinh.
Côn trùng vùng ruộng ô đầm ở đây sẵn có: ruồi, muỗi, bướm, chuồn chuồn kim, chuồn chuồn bà, đóm đóm, bọ hung, xén tóc, cùa cùa, mằng hăng, mòng trâu, kiến, rít, bọ cạp, gián, châu chấu, ve rừng, ve sầu, bò niệng, giun, vạc đất, dế, mối, rầy, nhện các loại, ong các loại v.v...
Động vật thủy sinh cũng được nghiên cứu "động vật nổi", "động vật chìm", có chín loài giun nhiều tơ, 9 loài giáp xác bơi nghiêng, 2 loài giáp xác chân chèo, 9 loài thân mềm và 3 loài ấu trùng... Ngoài ra còn có nguồn thực vật dưới nước như rong rêu và nhiều loài chim ưa thích v.v...
Chúng tôi chuyển qua thuyền nhỏ để vào Cửa Lác. Sông Nịu chỉ dài hơn 2 km, chiều ngang có đoạn 100mét, chỗ sâu nhất khoảng 3 mét là con sông tự nhiên nước ngọt nhận nước từ trong cát, trong các khe Trăm Ngang, Trằm Nẩy, rồi chảy giữa hai thôn Trung Kiều và Đông Hồ, nó hợp lưu ở khe Tròng Bướm. Khe này xuất phát từ Trằm Vịnh. Từ đây sông Nịu chảy tiếp qua bến Tròng Làng mà đổ vào phá Tam Giang - Cửa Lác (Cửa Rào, Cửa Nịu).
Thuyền chạy chậm quanh co giữa hai bờ tre trúc, bần chá và chủ yếu là cây lác um tùm vượt quá đầu người. Gọi Cửa Lác cũng phải bởi từ cửa vào đến đầu thôn Thủy Nịu đôi bờ toàn lác là lác.
Tôi tới sau thuyền hỏi anh cầm lái dưới sông Nịu có những con gì? Anh đáp có cá tràu (lóc), trê, chèn, lúi, thia, rô, diếc, cấn, mại, bầu, má, ba ba, ếch, nhái... đủ hết.
Thế còn chim? Tôi cứ băn khoăn là về giữa đầm chim mà chim bay đi đâu hết cả. Thỉnh thoảng có thấy chim bói cá, chim sẻ bay cắt qua sông. Hoặc đôi lần nghe tiếng "bịp bịp bịp" của con chim bìm bịp thỏm thắc đâu đó trong lùm bụi rậm. Người ta nói khoảng tháng 12 đến tháng 3 ta thì từng đàn chim bay rợp trời rồi sà đậu kín nội đồng. Đó là những loài chim di trú từ châu Âu tuyết dày bao phủ sang ta tiết trời dịu mát, và phá Tam Giang là một niềm vinh hạnh đón chúng hàng năm.
Nhưng còn 36 loài chim định cư? thì chúng bay tản mác khắp chốn trong các đầm các nội cỏ cho tới tận rừng xanh vừa kiếm ăn vừa để tránh nắng. Xê dịch, giang hồ là đặc tính của chúng mà đặc biệt là các loài chim có sải cánh bay xa. Có loài vừa ăn vừa hót. Có loài hót về sáng, có loài chỉ hót về chiều hoặc đêm khuya. Lại có loài chỉ biết lủi thủi kiếm ăn mà không hót bao giờ. Bởi thế về giữa đầm chim trưa nắng nên thấy ít chim là có thể chấp nhận.
"Ơi đò chờ với" là tiếng con chim "ca cút" gợi nhớ một mối tình thủy chung đã đi vào huyền thoại: người vợ tần tảo lo bới xách cho chồng về kinh thi hội. Nhưng bởi quá lo toan mà chậm trễ. Khi người vợ đến bến đò thì đò đã ra giữa phá. Vừa thương chồng vừa ân hận, người vợ kêu đò, kêu mãi kêu mãi hết ngày lại đến đêm rồi lặng tiếng chết rũ bên bến mà thành loài chim "ca cút"... Còn giờ đây thì có chuyện chim "côi cút"!
Đài phát thanh Thừa Thiên Huế mới báo tin: ông Hồ Nậc, đội 1 thôn Cồ Tháp, HTX Thắng Lợi xã Quảng Lợi huyện Quảng Điền vừa bắt được một con chim, cao 1,5 mét, có người đoán là chim bồ nông!
Tôi đang ngồi viết ở nhà anh chị Phú, Tân Mỹ A, thì phó chủ tịch Trần Giải đột ngột tới thăm và cấp một thông báo. Thông báo số 31/ BC MT của Sở KHCN và Môi trường tỉnh Thừa Thiên Huế đề ngày 18-6-2001 gửi UBND xã Quảng Lợi do giám đốc Đỗ Nam ký: Sở KHCN và MT tỉnh đã cho chuyên viên về tận nơi khảo sát, chim bắt được lúc 5h30 ngày 29-5-2001 tại khu vực có nhiều trảng cát, bàu ngọt thuộc thôn Cồ Tháp - Quảng Điền, chim có lông trên mình màu đen, dưới bụng màu trắng, chân màu xám đen không có màng, cổ không có lông, mỏ màu ngà, gốc mỏ màu đỏ. Đầu bóng không có lông, phần giữa đầu và cổ có các sợi lông màu nâu có lúc nở xòe giống như hoa. Theo nhân dân địa phương cho biết thì loài chim này rất hiếm gặp, khoảng 10 năm trở lại đây nó mới xuất hiện đôi lần trong khu vực này.
Chim có trọng lượng 8,5kg, cao 94cm, chân dài 54cm, mỏ dài 23cm, chiều dài của thân 71,2cm, chiều ngang của thân 22,5cm. Chim ăn cá, trìa, hến, thịt với lượng thức ăn khoảng 2,5kg - 3kg/ngày. Hiện chim sống tại vị trí có tọa độ:
N16035' 495'' E107035'496''. Những kết quả nghiên cứu bước đầu và theo tài liệu về chim Việt Nam của các tác giả Nguyễn Cử, Lê Trọng Trãi, Karen Philipps và sách đỏ Việt Nam (phần động vật) của Bộ KHCN và MT thì con chim thuộc loại Già Đẫy họ Hạc, bộ Hạc. Đây là loại chim quý hiếm thuộc sách Đỏ đang ở trong tình trạng bị đe dọa ở mức nguy cấp trên thế giới. Nó là nguồn gen quý hiếm, có giá trị khoa học và thẩm mỹ.
Thông báo còn chỉ rõ: "Để bảo vệ loài chim quý hiếm nằm trong sách Đỏ Việt Nam, Sở KHCN và MT tỉnh đề nghị chính quyền địa phương phải bảo vệ, tạm lưu giữ tại nhà ông Hồ Nậc và sử dụng nguồn kinh phí do Sở cấp đảm bảo thức ăn cho Già Đẫy Java để chờ phương án quốc gia. ..". Thì quả là việc động trời, nó đâu còn "Côi cút"? "Côi cút" là do người ta đổ xô đi coi nó mà đặt tên cho nó vậy. Loài chim gốc gác Inđônêxia - quê hương nghìn đảo ấy di trú sang đây mà lạc bầy chăng?
Có loài động vật nào mà chẳng khểnh ăn. Loài chim cũng vậy. Ăn lắm cá cũng chán. Chúng bay tìm mồi khác. Chim đa phần thích ăn sâu bọ, dinh dưỡng cao lại dễ nuốt. Chim mẹ tìm bắt sâu về bón cho con là lẽ ấy. Bởi vậy, nước ta trước đây có đến 95% nông nghiệp (hiện nay có thông báo là 82%) mà làm gì có thuốc trừ sâu? Xung quanh các cánh đồng đều có lùm, lòi, cây cổ thụ. Các loài chim tự chúng phân bố đều những nơi ẩn náu rồi đi bắt sâu trên các cánh đồng từ khi người nông dân vào mùa gieo cấy.
Chim bắt sâu là cân bằng sinh thái tuyệt vời nhất.
Ở miền Bắc ai mà chẳng thích món ăn "cá rô nấu canh cải". Vào hai vụ chiêm mùa trĩu bông là trĩu xuống cả loài sâu keo, bọ nâu. .. Cá rô nhảy đớp các loài sâu bọ mà béo. Người ta luộc cá rô gỡ lấy thịt và trứng rồi cho vào nồi canh cải đang sôi. Đơn giản vậy. Nhưng khi múc ra tô, thịt và trứng cá đã vàng lên sóng sánh nền cải xanh!
Chim định cư ở ta hình thành sân chim rõ nhất là cò trắng (mũi Cà Mau). Năm trước có tin ở vùng biển Vĩnh Linh bỗng nhiên có một đàn cò khoảng vạn con, từ đâu bay về xin "nhập hộ khẩu". Quanh phá Tam Giang đã hình thành nhiều đầm chim mà đầm chim Quảng Thái là có ưu thế hơn nhờ những con sông đẩy phù sa về vùng đất trũng...
Đang nghĩ ngợi lan man thì thuyền tắt máy. Anh lái thuyền nắm vội cây sào gạt nhẹ giữ cho mũi thuyền gối bãi bằng an.
Tôi sửng sốt bởi tiếng cu gù rất gần và nghe cả tiếng xa xa "cúc cù cu", "cúc cù cu"... Chim cu gáy giữa trưa cho ta cái cảm giác vợi bớt cơn nắng hè oi ả. Dưới lùm cây, người ta chuyền tay nhau bát nước chè xanh dốc từ trong bầu trước khi cất gánh lúa lên vai nhún nhảy trở về nhà. "Cúc cù cu"... ôi tiếng chim cu mộc mạc mà thắm đượm tình quê kiểng muôn đời!
Thuyền đi trên sông Nịu, giữa hai bờ lác giữa hai bờ cây um tùm. Chắc là chim cu gáy lên nhiều đợt nhiều tầm lắm rồi mà do tiếng máy nổ mới không nghe thôi. Giờ thì rõ mồn một "cúc cù cu" rất gần đâu đó trên các cành cây mít, cành rưới và xa xa đâu đó bên kia cồn bãi, nội đồng. Xã Quảng Thái được Nhà nước tuyên dương hai lần đơn vị anh hùng. Bí thư Đảng ủy Quảng Thái Văn Đức Thống cho chúng tôi biết: sự khốc liệt ở đây xảy ra từ thời chống Pháp rồi tiếp chống Mỹ. 5km đường địa đạo chạy giữa hai thôn Trung Kiều - Đông Hồ theo hướng bắc nam, nó đã nuốt bao tre nứa, gỗ lạt vào bụng nó. (Vùng đất cát, qua nhiều năm gió mưa nên công trình đã tự hủy. Nó không còn như địa đạo Vĩnh Mốc - Vĩnh Linh và Củ Chi - thành phố Hồ Chí Minh) Thật đáng tiếc!
Với chính sách giao đất giao rừng, vườn keo, vườn bạch đàn nhiều nơi thi nhau lên xanh. Nhưng nó chưa kịp nhử nhử cho những loài chim di cư định cư thì bị đốn hạ để bán. Một dạng phá rừng! Ba bốn năm sau, những chồi cây mọc chảng ba quanh các gốc cây bị đốn ấy, người ta lại "tận dụng" lần nữa! Triệt để hơn người ta đốt lá khô, bới gốc và cày xới! Thì thử hỏi làm gì còn có chuyện sân chim giữa vùng đất trắng?
Ta phải biết trồng bạch đàn, keo để cung cấp cho các nhà máy giấy nhưng cũng phải trồng đại trà các cây đa, cây đề, cây sanh, cây si; đây là những loài cây sẽ thành cổ thụ tỏa bóng mát cho xóm cho làng. Những cây lá to lại có quả cho những đàn chim thích ăn quả mà trụ lại. Lại có nhiều loài chim thích ăn sâu, ăn cá thì về đây trú nắng nghỉ ngơi trước khi cất cánh đi bắt sâu trên những cánh đồng xa...
Có thể nói rằng, biết trồng cây xanh là tạo dựng một lẽ sống đẹp, vậy.
Quanh phá Tam Giang tôi thấy nhiều cồn miếu, lăng mộ xây càng ngày càng to. Nó trắng toát lên hừng hực mà thiếu bóng cây xanh. Màu trắng toát chói chang khốc liệt này có thể làm cho nhiều loài chim hoảng loạn mà bay đi! Thiết nghĩ, nhiều nơi nếu khôi phục các ngôi miếu cổ hoặc xây mới thì nên bố trí trồng luôn vài cây xanh vào đó. Nó càng tôn nghiêm ở chốn thần linh!
Dọc bờ sông Nịu đã có nhiều bãi cồn trồng bạch đàn, nhưng cũng nên qui hoạch lại; có thể đổ thêm đất tạo dựng những cồn mới rồi trồng các cây cổ thụ để nhử cho chim về cư trú.
Một xã anh hùng như Quảng Thái, với 5100 người dân, gồm 8 thôn và hai HTX chuyên nông - ngư đã từng đào và xây 5km đường địa đạo, có 22 bà mẹ Việt Nam anh hùng, có liệt sĩ Hoàng Minh Hòa chiến đấu ngoan cường đã 5 lần danh hiệu dũng sĩ diệt Mỹ (nay xã nhà đang lập lại hồ sơ đệ trình nhà nước truy tặng danh hiệu anh hùng). Và em Lê Xuân mới 13 tuổi đã tham gia chiến đấu nhiều trận trên quê hương và đã anh dũng hy sinh:
"Em Xuân ơi!
Quê em đó đất Phong Lai cát trắng
Cái tuổi mười ba gan to hơn núi
Lũ giặc bắt em dỗ dành sao nổi
Đạn nổ rồi em vẫn không khai..."
Đó là một đoạn trong "Bài ca Lê Xuân" mà bà con người một câu chắp nối làm ra để người dân Quảng Thái mãi mãi có thêm một vị anh hùng tí hon trong lòng họ.

VĨNH NGUYÊN
(nguồn: TCSH số 153 - 11 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.

  • VÕ NGỌC LANNếu cuộc đời người là một trăm năm hay chỉ là sáu mươi năm theo vòng liên hoàn của năm giáp, thì thời gian tôi sống ở Huế không nhiều. Nhưng những năm tháng đẹp nhất của đời người, tôi đã trải qua ở đó. Nơi mà nhiều mùa mưa lê thê cứ như níu giữ lấy con người.

  • LTS: Đại Học Huế đang ở tuổi 50, một tuổi đời còn ngắn ngủi so với các Đại học lớn của thế giới. Nhưng so với các Đại học trong nước, Đại Học Huế lại có tuổi sánh vai với các Đại học lớn của Việt như ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Trên hành trình phát triển của mình, Đại Học Huế đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, giáo dục, văn hoá ở miền Trung, Tây Nguyên, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho khu vực và cả nước. Nhân dịp kỷ niệm này, TCSH phân công ông Bửu Nam, biên tập viên tạp chí, trao đổi và trò chuyện với PGS.TS. Nguyễn Văn Toàn, Giám đốc Đại Học Huế. Trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuộc trò chuyện này.

  • VÕ ĐẮC KHÔICó một thời người Huế loay hoay đi vỡ núi, phá rừng trồng khoai sắn. Có một thời người Huế tìm cách mở cảng nước sâu để vươn ra biển lớn, hay đón những con tàu viễn xứ xa xôi. Cả nước, các tỉnh thành láng giềng như Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng cũng đều ra sức làm như thế, sao ta có thể ngồi yên?

  • TRẦN ĐÌNH SƠNĐất Việt là cái nôi sinh trưởng của cây trà và người Việt biết dùng trà làm thức uống thông thường, lễ phẩm cúng tế, dâng tặng, ban thưởng từ hàng ngàn năm nay.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGTừng là đất Kẻ Chợ – kinh đô triều Nguyễn xưa, ẩm thực Huế dựa trên nền tảng triết lý của cái đẹp, món ăn món uống phải ngon nhưng nhất thiết phải đẹp, vị phải đi với mỹ, thiếu mỹ thì không còn vị nữa.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCTrong vô vàn những bài thơ viết về Huế, hai câu thơ của Phan Huyền Thư dễ làm chúng ta giật mình:Muốn thì thầm vuốt ve Huế thật khẽLại sợ chạm vào nơi nhạy cảm của cơ thể Việt Nam                                                                    (Huế)

  • FRED MARCHANT(*)                                                                                      Trong chuyến viếng thăm Huế lần thứ hai vào năm 1997, tôi làm một bài thơ đã đăng trong tập thứ hai của tôi, Thuyền đầy trăng (Full Moon Boat). Bối cảnh bài thơ là một địa điểm khảo cổ nổi danh ở Huế. Có thể nói là bài thơ này thực sự ra đời (dù lúc đó tôi không biết) khi nhà thơ Võ Quê đề nghị với tôi và các bạn trong đoàn ghé thăm Đàn Nam Giao trước khi đi ăn tối ở một quán ăn sau Hoàng Thành bên kia sông Hương.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNDu khách là người trong mắt nhìn và qua cảm nhận của chính người đó.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCTừ buổi hồng hoang của lịch sử, hình ảnh ban đầu của xứ Huế chỉ thấp thoáng ẩn hiện qua mấy trang huyền sử của đất nước Trung Hoa cổ đại. Tài liệu thư tịch cổ của Trung Quốc đã kể lại từ năm Mậu Thân đời vua Đường Nghiêu (2353 năm trước Công nguyên), xứ Việt Thường ở phương Nam đã đến hiến tặng vua Nghiêu con rùa thần từng sống qua ngàn năm tuổi.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCó một hiện tượng lịch sử lý thú, ở những nơi khác vốn dĩ bình thường  nhưng ở Huế theo tôi là rất đặc biệt, đó là tại mảnh đất này sau hơn ba mươi năm ngày đất nước thống nhất, đã hình thành một thế hệ nữ doanh nhân thành đạt giữa chốn thương trường.

  • MINH TÂMTôi nghe bà con bán tôm ở chợ Bến Ngự kháo nhau: Dân nuôi tôm phá Tam Giang đã xây miếu thờ “Ông tổ nghề” của mình gần chục năm rồi. Nghe nói miếu thờ thiêng lắm, nên bà con suốt ngày hương khói, cả những người nuôi tôm ở tận Phú Lộc, dân buôn tôm ở Huế cũng lặn lội vượt Phá Tam Giang lễ bái tổ nghề.

  • PHẠM THỊ ANH NGA"Hiểu biết những người khác không chỉ đơn giản là một con đường có thể dẫn đến hiểu biết bản thân: nó là con đường duy nhất" (Tzvetan Todorov)

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNSau hơn 1,5 thế kỷ được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của Đàng Trong, đến cuối thế kỷ XVIII, Huế trở thành kinh đô vương triều Tây Sơn (1788 - 1801) và sau đó là kinh đô của vương triều Nguyễn (1802 - 1945).

  • TRƯƠNG THỊ CÚC Sông Hương là một trong những nét đẹp tiêu biểu của thiên nhiên xứ Huế. Sông là hợp lưu của hai nguồn Hữu Trạch, Tả Trạch, chảy qua vùng đá hoa cương cuồn cuộn ghềnh thác, đổ dốc từ độ cao 900 mét đầu nguồn Hữu trạch, 600 mét đầu nguồn Tả trạch, vượt 55 ghềnh thác của nguồn hữu, 14 ghềnh thác của nguồn tả, chảy qua nhiều vùng địa chất, uốn mình theo núi đồi trùng điệp của Trường Sơn để gặp nhau ở ngã ba Bàng Lãng, êm ả đi vào thành phố, hợp lưu với sông Bồ ở Ngã Ba Sình và dồn nước về phá Tam Giang, đổ ra cửa biển Thuận An.

  • Chúng ta biết rằng trong thời đại ngày nay, khi đầu tư xây dựng những cơ sở nhằm đáp ứng nhu cầu cao của người đi du lịch, văn hóa ẩm thực được xem như là cánh cửa đầu tiên được mở ra để thu hút du khách.

  • I. Chúng tôi xin tạm hiểu như sau về văn hóa Huế. Đó là văn hóa Đại Việt vững bền ở Thăng Long và Đàng Ngoài chuyển vào Thuận Hóa - Phú Xuân.

  • Thúng mủng Bao La đem ra đựng bột. Chiếu Bình Định tốt lắm ai ơi. Tạm tiền mua lấy vài đôi. Dành khi hiếu sự trải côi giường Lào.

  • LTS: Tiến sĩ Nguyễn Thuyết Phong hiện đang dạy tại trường đại học Kent State thuộc tiểu bang Ohio, . Đây là một trong những bài trích ra từ cuốn Hồi ký âm nhạc, gồm những bài viết về kinh nghiệm bản thân cùng cảm tưởng trong suốt quá trình đi đó đây, lên núi xuống biển, từ Bắc chí Nam của ông để sưu tầm về nhạc dân tộc. Được sự đồng ý của tác giả, TCSH xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.

  • Từ sau ngày giải phóng đến nay, tôi chưa một lần gặp lại Anh hùng Vai và Anh hùng Kan Lịch. Về Huế hoài nhưng lên A Lưới lại không đủ giờ và không dễ dàng gì. Những năm trước, đường về A Lưới còn chật hẹp, lổm chổm đất đá, lại hay sạt lở... đi về rất khó khăn và phải mất vài ngày. Đến Huế vào mùa khô thì lại ít thời giờ. Về Huế dịp mùa mưa thì đường về A Lưới luôn tắc nghẽn.