NSND Trà Giang chia sẻ ký ức và cảm xúc về bức ảnh được chụp cùng Bác Hồ năm 1962.
Bức ảnh NSND Trà Giang chụp cùng Bác Hồ tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 3 năm 1962
NSND Trà Giang là thế hệ những diễn viên đầu tiên của điện ảnh Cách mạng Việt Nam sau giải phóng. Sự nghiệp điện ảnh của bà là một minh chứng cho một thế hệ diễn viên tài năng, ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng khán giả yêu điện ảnh Việt Nam thời kỳ đầu.
Chia sẻ về bức ảnh được chụp cùng Bác Hồ, NSND Trà Giang nhớ lại: “Bức ảnh tôi tặng hoa cho Bác là bức ảnh ghi lại giây phút tôi đi dự Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ 3 tại nhà hát Lớn của thủ đô Hà Nội. Lúc bấy giờ, đại hội cũng có nhiều đại biểu miền Nam làm việc ngoài Bắc, trong đó có tôi. Tôi là đại biểu trẻ tuổi nhất nên tôi được tổ chức phân công cùng đại biểu cao tuổi nhất đại diện tặng hoa cho Bác. Tại đại hội đó, Bác gặp gỡ rất nhiều đại biểu và Bác nói nhiều điều với văn nghệ sĩ. Trong đó, điều sâu sắc nhất mà tôi cảm nhận được là khi Bác nói về đất nước và trách nhiệm của người nghệ sĩ. Bác nói “Ngày xưa, khi đất nước còn nô lệ, thì văn nghệ sĩ cũng là nô lệ, bị coi là 'xướng ca vô loài'. Còn bây giờ, đất nước thuộc về ta nên văn nghệ sĩ cũng là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa”. Bác nói nhiều điều nhưng đây là điều tôi ghi nhớ sâu sắc.”
Mặc dù thời gian đã hơn 50 năm, nhưng khoảnh khắc những lần được gặp Bác vẫn còn là ký ức đẹp trong lòng NSND Trà Giang, cô chia sẻ thêm: “Bức ảnh đó ghi lại thời khắc lịch sử của hội nghị và tôi là người được tặng hoa cho Bác. Nhưng với tôi, lời Bác nói trong hội nghị như bài học đầu đời của tôi khi bước chân làm nghệ sĩ. Trước đó tôi đã đóng 2 phim nhưng tôi vẫn chưa hiểu hết trách nhiệm của người nghệ sĩ đối với cuộc sống, đối với xã hội. Khi dự hội nghị đó tôi cảm nhận đầy đủ nhất. Và trong suốt quá trình công tác hơn nửa thế kỷ, tôi luôn nhớ trách nhiệm của người nghệ sĩ với công chúng, và trong cuộc sống. Tôi luôn phấn đấu theo lời Bác Hồ nói trong hội nghị lần đó”.
Hiện tại những điều đó vẫn còn mang ý nghĩa trong cuộc sống của bà khi nghĩ về vai trò người nghệ sĩ. NSND Trà Giang cho biết, bà đã dừng đóng phim được hơn 20 năm, nhưng bà luôn nghĩ, không chỉ bản thân bà mà tất cả những ai có trách nhiệm với xã hội sẽ thấy, sẽ hiểu những lời Bác nói vẫn còn mới và còn đầy đủ ý nghĩa đến hôm nay. Bởi vì, văn nghệ không chỉ là giải trí mà còn có vai trò mang đến cho người xem những ý nghĩa của cuộc đời, có vai trò tranh đấu vì một xã hội tốt đẹp hơn. Người nghệ sĩ không cảm nhận được điều đó, không thấy được đầy đủ trách nhiệm của mình trước người xem thì theo bà, cũng chưa làm tròn trách nhiệm của người nghệ sĩ.
NSND Trà Giang cũng chia sẻ thêm cảm nhận riêng của bà về Bác Hồ: “Đối với tôi thì những lần tôi được gặp Bác, nghe Bác nói, tôi cảm nhận Bác không chỉ như một nhà lãnh tụ mà như một người cha, người ông trong gia đình. Vì những lời Bác nói vừa hài hước, dí dỏm vừa cô đọng mà rất gần gũi, dễ hiểu. Ví dụ như, ngoài cuộc gặp lần đó thì tôi còn được gặp Bác khi Bác đến thăm trường Điện ảnh. Chúng tôi là những diễn viên thế hệ đầu tiên học ra. Bác hỏi thăm “Các cháu học về diễn viên điện ảnh thì học về cái gì?’, chúng tôi mới nói “Chúng cháu được họ về diễn xuất, học về văn học, học vũ, học hát”. Bác chữa ngay, “phải nói là học múa mới đúng từ Việt Nam, còn họ vũ là từ của Hán học”. Những chuyện nhỏ như thế cũng hiểu Bác muốn người Việt Nam phải dùng đúng từ của Việt Nam”.
Đã hơn 50 năm trôi qua, những lần gặp Bác Hồ, những kỷ niệm có được, dường như vẫn vẹn nguyên trong ký ức của NSND Trà Giang.
Hiện tại, NSND Trà Giang không còn đóng phim, nhưng bà vẫn theo dõi sự phát triển của điện ảnh Việt Nam qua các kỳ liên hoan, các lễ trao giải thường niên của Hội Điện ảnh… Bà cũng theo dõi nhiều bộ phim Việt Nam sản xuất. Bà cho biết mình không đóng phim nữa, một phần vì sức khỏe không cho phép, nhưng điều quan trọng nhất chính là sau loạt vai mà bà đã đóng thì những vai diễn sau này đều chưa đủ sức hấp dẫn đối với bà, nên NSND Trà Giang từ chối.
Tuy không đóng phim nhưng NSND Trà Giang vẫn giữ niềm đam mê với nghệ thuật, đó là nghệ thuật hội họa. Bà cho biết, hàng ngày bà vẫn lao động miệt mài cùng màu sắc để tạo ra những bức tranh, để nuôi lớn những đam mê nghệ thuật trong mình.
Theo Băng Châu - Dân Trí
HỒ DZẾNH
Hồi ký
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
NGUYỄN DU
LÝ HOÀI THU
Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.
PHẠM THỊ CÚC
(Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)
Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.
CAO THỊ QUẾ HƯƠNG
Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.
THÁI KIM LAN
Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.
Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?
Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.
Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.
DƯƠNG PHƯỚC THU
LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.
NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN
(Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)
BÙI KIM CHI
Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…
LÊ MINH
Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)
… Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.
NGUYỄN KHOA BỘI LAN
Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.
(SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.
NGUYỄN CƯƠNG
Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.
PHẠM HỮU THU
Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.
TRẦN NGUYÊN
Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.
PHẠM HỮU THU
Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12
“Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).