Nỗi niềm của Nguyễn Duy qua bài thơ “Nhớ bạn”

10:38 20/08/2008
MAI VĂN HOAN.Tôi biết Nguyễn Duy qua bài thơ “Tre Việt ” in trên báo Văn Nghệ. Từ đó, tôi luôn theo sát thơ anh. Mở trang báo mới thấy tên anh là tôi đọc đầu tiên. Với tôi, anh là một trong những người hiếm hoi giữ được độ bền của tài năng.

Anh viết thật hay về hai vùng quê: Thanh Hoá, nơi anh sinh ra và lớn lên, Nam Bộ nơi anh từng lăn lộn gắn bó nhiều năm. Thấp thoáng trong thơ anh còn có các địa danh Hà Nội, Nha Trang, Đà Lạt và Huế. Huế là nơi hình như anh chỉ ghé qua một đôi lần nhưng ấn tượng về Huế lưu lại trong anh thật sâu đậm. Trong chùm thơ “Gửi Huế” anh viết về họng súng thần công, tiếng chuông chùa, những chiếc cầu bắc qua sông Hương. Anh hỏi thăm:
            Quán cơm Âm Phủ còn không?
            Cô gì hôm ấy lấy chồng hay chưa?
Nguyễn Duy khép lại chùm thơ về Huế bằng nỗi niềm “Nhớ bạn”:
            “Tôi về xứ Huế mưa sa
            Em ơi Đồng Khánh đã là ngày xưa
            Tôi về xứ Huế chiều mưa
            Em ơi áo trắng bây giờ ở đâu”.
Tôi cứ băn khoăn không biết vô tình hay cố ý anh lại về xứ Huế đúng vào cái lúc “mưa sa” ấy. Huế đã từng ngắm cái dư vị mưa trong thơ Nguyễn Bính. Huống hồ anh đang có nỗi niềm với người con gái mà anh gọi bằng em một cách yêu thương, trìu mến. Người con gái ấy đã để lại trong anh những kỷ niệm khó quên. Hình như lòng anh đã thầm yêu nhưng chưa kịp giải bày. Họ đã từng:
            Lối mòn đá cuội rong chơi
            Lơ thơ trắng dưới chân đồi hoa mơ
Để bây giờ anh trở về thì:
            Bến Tuần loáng thoáng hàng dâu
            Em xa vườn lựu từ lâu lắm rồi!
Một chút ngậm ngùi, một chút hối tiếc bâng khuâng. Họ chưa kịp bước qua cái ranh giới mỏng manh, và vì thế giữa hai người mãi mãi vẫn là tình bạn. Anh đâu dám trách ai chỉ tự dằn vặt mình.
Giờ đây, tất cả đã thành chuyện “Ngày xưa” rồi. Hai tiếng “Ngày xưa...” nghe sao mà ngậm ngùi đến vậy. Tôi chợt nhớ lời một bài hát: “Ngày xưa mưa rơi thì sao... Bây chừ nghe mưa lại buồn...”. Buồn là vì mưa Huế đã gợi trong anh những kỷ niệm êm đềm, thơ mộng của cái thời xưa ấy. “Lối mòn đá cuội” còn đó, “chân đồi hoa mơ” vẫn còn đó... Nhưng “Một người vắng, tất cả đều hoang vắng”. Đang đắm chìm trong cơn mưa hồi ức thì vào đúng cái thời điểm ấy, anh chợt thấy:
            Lan báo hỉ nở tình cờ
            Bông ngô đồng rụng xuống bờ Hương Giang.
Một vừa hé nở, một vừa rơi rụng như sự sống cứ thế nối tiếp nhau: Hạnh phúc và nỗi đau, nụ cười và nước mắt... Phải chăng đó là quy luật của muôn đời? Đọc hai câu thơ này tôi chợt nhớ Nam Cao khi ông nói, đại ý: Hạnh phúc như một chiếc chăn hẹp người này kín thì người kia hở. “Bông ngô đồng rụng xuống bờ Hương Giang” hay chính là giọt nước mắt tiễn biệt một mối tình? Kết thúc bài thơ là hình ảnh:
            Chợ chiều Bến Ngự chưa tan
            Ai đi ngược dốc Phú Cam một mình.
Cái dáng “ai” một mình ngược dốc Phú Cam kia thật là tội nghiệp, thật là cô đơn. Đại từ “ai” không xác định vì thế gợi cho người đọc những mạch liên tưởng khác nhau.
“Nhớ bạn” thật nhẹ nhàng mà cũng thật sâu lắng. Lời thơ bình dị, tự nhiên làm ta có cảm tưởng “như từ trời rơi xuống (Nguyễn Quang Sáng). Vào những “Chiều mưa phố buồn” tôi cứ nghe văng vẳng đâu đây dư âm của những vần thơ “Nhớ bạn”. Và mỗi lần như thế lòng tôi lại bâng khuâng một nỗi buồn dịu nhẹ, trong trẻo. Nỗi buồn đó phảng phất như một làn hương thanh tao, tinh khiết.
M.V.H
(nguồn: TCSH số 159 - 05 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒ THẾ HÀ(Tham luận đọc tại Hội thảo Tạp chí văn nghệ 6 tỉnh Bắc miền Trung)

  • LÊ GIA NINHNgày 10 tháng 10 năm 1955, Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa bừng lên niềm vui, ngập trong cờ, hoa và nắng thu. Những chàng trai ngày “ra đi đầu không ngoảnh lại”, trải qua cuộc trường chinh ba ngàn ngày trở về trong niềm vui hân hoan và những dòng “nước mắt dành khi gặp mặt” (Nam Hà).

  • THANH TÙNGChống tham nhũng, đục khoét dân lành không chỉ là công việc của nhà chức trách mà còn ở tất cả mọi người dù ở chế độ xã hội nào. Các thi sĩ không chỉ làm thơ ca ngợi cuộc sống tình yêu, đất nước con người mà còn dùng ngọn bút thông qua nước thi phẩm của mình để lên án, vạch mặt bọn quan tham này.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNTrong lịch sử các nhà khoa bảng ở Việt , ít có gia đình nào cả ba ông cháu, cha con đều đỗ Trạng nguyên. Đó là gia đình Trạng nguyên Hồ Tông Thốc ở Kẻ Cuồi, Tam Công, Thọ Thành, Yên Thành, Nghệ An.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊN1. Trước hết ta phải bàn với nhau về chữ hay, tức thế nào là một tác phẩm hay. Bởi cái hay không bất biến trong không gian và thời gian, nó vận động và biến đổi tùy theo hoàn cảnh, với những tiêu chí cụ thể khác nhau.

  • TRẦN HUYỀN SÂMRuồng bỏ - Disgrace (1) là một cuốn tiểu thuyết mang phong cách giản dị. Nhưng đó là sự giản dị của một bậc thầy về thể loại roman. Giới lý luận văn học và các chính trị gia phương Tây (2) đã đặt ra những câu hỏi có tính hoài nghi. Điều gì ở cuốn sách có độ trang khiêm tốn này đã mang lại giải Nobel cho Coetzee: Vấn đề kỹ thuật tiểu thuyết, nỗi điếm nhục về nhân cách con người, hay là bi kịch lịch sử hậu Apartheid?

  • NGUYỄN THÀNHLịch sử phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX đánh dấu bởi nhiều khuynh hướng phê bình hiện đại: phê bình ấn tượng, phê bình phân tâm học, phê bình xã hội học, phê bình mác xít, phê bình thi pháp học...

  • TRẦN LỘC HÙNG“NỒI HƠI NGUYÊN TỬ” NGĂN NGỪA THẾ CHIẾN THỨ BAChuyện kể rằng sau cuộc thử nghiệm thành công của trái bom nguyên tử đầu tiên vào năm 1949, cha đẻ của nó - Igor Vaxilevich Kurchatov - đã khóc nức nở.

  • HÀ VĂN THỊNHSố 7 là một con số huyền thoại. Nếu như tính xuất xứ xa nhất, công đầu về việc “tìm ra” số 7, thuộc về người Ai Cập, cách nay ít nhất 5.000 năm. Khi hiểu được rõ ràng việc con sông Nil chia làm 7 nhánh trước lúc đổ ra Địa Trung Hải, người Ai Cập vận “lý” để tin là nó nhất định phải hàm chứa nghĩa bí ẩn nào đó phản ánh cái “tư tưởng” triết lý của Đấng Tạo hóa.

  • TRẦN VIẾT THIỆNNăm 1987, người ta từ ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến sững sờ trước sự trình làng của một cây bút đã vào độ tứ tuần. Tuổi bốn mươi lại là thời kỳ son sắt nhất của cây bút này, nói theo quan niệm của ông: “Đời viết văn cũng giống như đời người đàn bà”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO - NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Trích)...

  • TRẦN NGỌC CƯChúng ta thường nghĩ rằng ở trong mỗi tâm hồn Việt Nam đều có một thi sĩ, hay nói thế khác, người Việt Nam sinh ra và lớn lên trong bầu khí văn hoá ra-ngõ-gặp-thi-nhân. Đầu đời là những câu ca dao mẹ hát ru con, cuối đời là câu kinh tiếng kệ, những lời nguyện cầu, đều là thơ cả.

  • PHẠM TUẤN ANHSau 1975, văn xuôi đóng vai trò chủ đạo trong vận động đổi mới của văn học Việt Nam. Vai trò cách tân của văn xuôi đã được khẳng định đồng thời với vị thế mới của cái hài. Cái hài, với tiếng cười hài hước (humor) phồn thực đã góp phần quan trọng trong quá trình giải thể ý thức “quần thể chính trị”, để văn học thoát khỏi cục diện nhất thể của cái cao cả, sáp tới cuộc sống muôn màu với những giá trị thẩm mĩ đa dạng.

  • TUẤN ANH“Ở đâu bản năng nghèo nàn, nhân cách cũng nghèo nàn” (Jean Lacroix)

  • NGUYỄN THẾNhững năm gần đây, vấn đề nghiên cứu về Truyện Kiều đã được các học giả Việt trong và ngoài nước quan tâm. Nhiều cuộc trao đổi, thảo luận về Truyện Kiều được đưa ra trong các cuộc hội thảo chuyên ngành về ngôn ngữ, văn học và trên diễn đàn báo chí, Internet...

  • NGUYỄN VĂN HẠNHI. Có những quan niệm khác nhau về bản chất, chức năng của văn chương, và có những cách thức khác nhau trong sáng tạo và khám phá văn chương, tuỳ theo hoàn cảnh, mục đích, trình độ, khuynh hướng nhận thức và hoạt động của con người trong lĩnh vực này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam 1957-2007)

  • TÔN ÁI NHÂNThật ra, những điều mà nhà văn, Đại tá Tôn Ái Nhân nêu ra dưới đây không hoàn toàn mới so với “búa rìu dư luận” từng giáng xuống đầu các nhà văn đương đại. Và, bản thân chúng tôi cũng không hoàn toàn đồng tình với tất thảy những sự kiện (kể cả những vấn đề nhạy cảm) mà ông đã “diễn đạt” trong 14 trang bản thảo gửi tới Tòa soạn. Chính vì vậy, chúng tôi đã xin phép được cắt đi gần nửa dung lượng, để “THẤT TRẢM SỚ” NHÀ VĂN đến với bạn đọc một cách nhẹ nhàng hơn. Nhân đây cũng muốn gửi tới tác giả lời xin lỗi chân thành, nếu như lưỡi kéo của Sông Hương hơi “ngọt”.

  • NUNO JÚDICENhà thơ, nhà phê bình văn học Nuno Júdice (sinh 1949) là người gốc xứ Bồ Đào Nha. Ông có mối quan tâm đặc biệt đối với văn học hiên đại của Bồ Đào Nha và văn học thời Trung cổ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Là tác giả của khoảng 15 tuyển tập thơ và đã từng được trao tặng nhiều giải thưởng trong nước, ông cũng đồng thời là dịch giả và giảng viên đại học. Từ năm 1996, ông sáng lập và điều hành tạp chí thơ “Tabacaria” ở Lisbonne.

  • NGUYỄN VĂN DÂNNgười ta cho rằng tiểu thuyết có mầm mống từ thời cổ đại, với cuốn tiểu thuyết Satyricon của nhà văn La Mã Petronius Arbiter (thế kỷ I sau CN), và cuốn tiểu thuyết Biến dạng hay Con lừa vàng cũng của một nhà văn La Mã tên là Apuleius (thế kỷ II sau CN).