Nỗi buồn nhân thế của Trương Đăng Dung

15:12 26/08/2011
NGUYỄN TRỌNG ĐỨC (Cảm nhận về tập thơ "Những kỷ niệm tưởng tượng")SHO - Lâu nay, người ta biết đến Trương Đăng Dung với tư cách là một nhà nghiên cứu lí luận văn học. Nhưng gần đây, sự xuất hiện của tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng làm xôn xao văn đàn Việt Nam đã khiến đông đảo bạn đọc không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra rằng: bên cạnh một Trương Đăng Dung lí luận còn có một Trương Đăng Dung thơ.

Nhà thơ Trương Đăng Dung

Có thể nói rằng ở Trương Đăng Dung, lí luận và thơ là hai thái cực khác nhau nhưng lại có sự xuyên thấm hài hòa; những công trình lí luận của ông không cứng nhắc trên lí thuyết, mà đã có sự tác động tích cực vào đời sống văn học nước nhà; còn với thơ, dù mới chỉ trình làng tập thơ đầu tay, nhưng Trương Đăng Dung đã chứng tỏ được tài năng của một cây bút có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư tưởng và cảm xúc, giữa chất trí tuệ và độ mặn mà của tâm tư tình cảm. Đó là chưa kể đến một lối diễn đạt mới lạ mang đậm dấu hiệu của Chủ nghĩa Hậu hiện đại.

Những kỷ niệm tưởng tượnglà một tập thơ hiện thực - sản phẩm của một tâm hồn lãng mạn, là nỗi lòng thất vọng về hiện thực đang diễn ra, và niềm khát vọng về một hiện thực bình yên, hạnh phúc trong tưởng tượng. Những ai không trải nghiệm đắng cay, gian khổ trong đời, những ai dửng dung với cuộc đời và tình người thì không dễ cảm được những điều tác giả gửi gắm trong tập thơ này.

Đến với Những kỷ niệm tưởng tượng của Trương Đăng Dung, chúng tôi nhận ra trong cái dòng chảy trầm buồn của thơ ông một chiều sâu tư tưởng. Bao trùm lên tập thơ này là một nỗi buồn nhân thế. Nỗi buồn ấy được thể hiện ở nhiều trạng thái khác nhau. Có khi đó là sự hoài niệm về quá khứ, về hình ảnh dòng sông và dòng đời thủa thiếu thời, khi người với người sống với nhau đầy ắp nghĩa tình:
Anh trở về với bến sông xưa,
Em không nhớ thời gian nước chảy
Anh không biết những ngày thơ bé ấy
Những giọt nước qua má, qua môi
Rơi xuống bàn tay ấm nóng hơi người.
                                 (Có thể)

Và hình ảnh người mẹ với đức hy sinh cao cả cũng làm cho Trương Đăng Dung cháy lòng:
Có một thời
Đến bữa cơm mẹ ngồi đợi vét nồi
Răng mẹ rụng lúc nào không biết nữa.
                               (Có một thời)

Quá khứ thật nhiều gian khổ, nhưng Trương Đăng Dung không buồn vì sự gian khổ ấy, ông chỉ buồn vì sự đổi thay của xã hội và tình đời đã làm cho cuộc sống trở nên nhạt nhẽo, những giá trị tinh thần, những dấu tích văn hóa truyền thống đã trở nên phai nhạt:
Hơn nửa thế kỷ đi lại trên mặt đất này
Tôi không còn nhiều bạn
Cây gạo đầu làng cũng bị chặt mất rồi
Tôi không còn kí ức
Những giọt máu cuối trời tuổi thơ...
                   (Ghi chép hè 2009)

Điều đáng nói là lúc hoài niệm về quá khứ lại là lúc mà tác giả thiết tha với cuộc đời hơn. Ông viết:
Anh không thấy thời gian trôi
Chỉ thấy lòng ngày một tha thiết với trời xanh
                 (Anh không thấy thời gian trôi)

Nỗi buồn nhân thế của Trương Đăng Dung có khi lại thể hiện ở những khắc khoải về kiếp người ngắn ngủi. Trạng thái này được lặp lại nhiều lần như một nỗi ám ảnh của tác giả. Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy thật đúng đắn khi bàn về vấn đề thời gian trong tập thơ này; đó không phải là thời gian bên ngoài như nỗi ám ảnh của các nhà Thơ mới, mà trong tập thơ này, tác giả quan niệm thời gian ở trong máu, trong khóe mắt, làn môi, trong dáng đi,... Thời gian chính là con người. Tác giả tập thơ dường như cảm nhận được bước đi rất nhanh của thời gian trong cơ thể mình. Bởi vậy mà ông luôn khắc khoải, lo sợ.
Anh không thấy thời gian trôi
Thời gian ở trong máu, không lời
Ẩn mình trong khóe mắt, làn môi
Trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang
viết lên mặt đất thành lời
về kiếp người ngắn ngủi.
           (Anh không thấy thời gian trôi)

Ý thức được bước đi của thời gian và sự ngắn ngủi của kiếp người, Trương Đăng Dung càng day dứt bởi những việc ấp ủ, những khát vọng còn chưa kịp thành hiện thực:
Sợi tóc rụng bàn tay nào giữ được
Mỗi ban mai khắc khoải việc chưa thành.
            (Anh không thấy thời gian trôi)

Những khắc khoải, lo sợ về kiếp người ngắn ngủi càng cho thấy tấm lòng hết mực yêu đời và tư tưởng lớn, khát vọng lớn của Trương Đăng Dung.

Đọc Những kỷ niệm tưởng tượng của Trương Đăng Dung, chúng tôi thấy một trạng thái tư tưởng, cảm xúc được thể hiện tập trung và xuyên suốt tập thơ, đó là nỗi buồn, sự thất vọng trước hiện thực đời sống con người và xã hội. Khi hoàn niệm về quá khứ, Trương Đăng Dung tiếc nuối đến cháy lòng, lúc trở về hiện tại, ông đau đớn vô cùng bởi đâu đâu trên thế gian này cũng thấy chiến tranh, chết chóc, đói khổ, sự bon chen, chia lìa, đơn chiếc, lạnh lùng, đỗ vỡ; đâu đâu cũng đầy những trái ngang, phi lí,...

Trên dòng đời hối hả mấy ai dừng lại để thổn thức trước nỗi đau của đồng loại trên khắp thế gian này như tác giả của Những kỷ niệm tưởng tượng. Ông nhìn đâu cũng thấy đau thương. Đơn giản nhất là nỗi đau vì những toan tính mưu sinh, những gian nan vất vả của kiếp người:
Còn đây gương mặt của con người
Nhàu nát mưu sinh và hy vọng. 
           (Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi)

Kế đến là nỗi đau sự đói khổ, túng thiếu:
Ngày ta sinh là ngày đầu tiên ta nằm bệnh viện
Các bác sĩ hân hoan khi có trẻ ra đời
Họ lấy nhau của mẹ ta làm đồ nhắm rượu.
Các nữ y tá nhìn ta
Kinh nguyệt chảy màu máu còn tươi rói
Không có bông, họ lấy tà áo choàng lau vội.
                     (Những kỷ niệm tưởng tượng)

Và nỗi đau của những cảnh ngộ:
Anh đã thấy những người dị dạng
Dang tay đòi hái mặt trời
Những bóng ma thọt chân, lang thang
Đòi trở về quê cũ,...
                       (Chân trời)

Cuộc đời vốn đã lắm gian nan, cớ sao con người lại chuốc thêm nhiều đau khổ, gây nên cảnh loạn lạc, và chiến tranh đãm máu. Đây là hậu quả của chiến tranh mà Trương Đăng Dung đã tái hiện một cách đau đớn và khủng khiếp đến ghê người:
.....và những chuyến tàu chở đầy ắp vũ khí
Trên nóc toa là trẻ nhỏ người già.
Cùng nhau thấy những đám tang không có hòm
chân người chết thò ra khỏi chiếu
cùng nhau thấy những người mẹ bị thương ruột lòi ra
vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh nhau chỗ ngồi với rắn,                                 
và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo,...
                                   (Những kỷ niệm tưởng tượng)

Thánh đường Hồi giáo lẽ ra là nơi ban phát đức tin và tình yêu thương che chở của chúa, nhưng Trương Đăng Dung lại nhìn thấy:
Bom nổ ở một thánh đường Hồi giáo
Máu người nhuộm đỏ sách Kinh.
                      (Ghi chép hè 2009)

Trong bài Giấc mơ của Kafka, tác giả lại một lần nữa nhấn mạnh sự phi lí của xã hội loài người trong bối cảnh hậu hiện đại:
Ở New York chiều chiều
Những con voi nhảy từ tầng mười một xuống sông
cứu những con chim sẻ.

Ở Paris trước cửa Viện bảo tàng
Người nằm ngáp
Trâu xếp hàng mua cỏ.

Ở Moskva những thiếu phụ da vàng
Chơi với hổ
Trên quãng trường ngập nước

Ở Tokyo nữ phát thanh viên truyền hình
Không có miệng
Huơ tay chào khán giả...

Chính những nơi được xem là văn minh nhất của thế giới lại là nơi ngập tràn những điều phi lí, trái ngang. Loài người đang đi đâu, về đâu? Hướng đến sự văn minh, hay đang đi ngược lại quy luật sinh tồn và phát triển. Trương Đăng Dung đau buồn trước hiện thực nhân loại "càng bước càng lún sâu vào đất".

Hiện thực cuộc sống vốn nghiệt ngã, lạnh lùng, lẽ ra con người phải xích lại gần nhau. Vậy mà vẫn còn đó cảnh khi cánh cửa nhà này mở ra/ cánh cửa nhà kia khép lại (Những người đàn bà), người với người đi theo hàng dọc, nên chẳng bao giờ họ gặp được nhau. Viết những dòng thơ như thế, Trương Đăng Dung dường như muốn gửi đến người đọc chúng ta một thông điệp giàu ý nghĩa nhân sinh: đời vô cảm thì con người cần phải hữu cảm, có như thế cuộc sống này mới bớt thương đau.

Hiện thực xã hội đang đỗ vỡ từng ngày đã nằm ngoài sức tưởng tượng của Trương Đăng Dung, khiến ông không chỉ buồn, không chỉ đau mà còn ngơ ngác không hiểu nổi. Trong bài thơ Chúa đã ra đi ông viết:
Ta lớn lên ngơ ngác cõi người
Tình thương, thù hận, buồn, vui
Hun hút đường xa cát bụi
Người đi không biết về đâu

Điều kì lạ vẫn là thế giới
Tôi lặng nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ
Chúa đã ra đi
Chúa không thể nào ngờ.

Trong một xã hội đầy nghịch lí như thế, hạnh phúc là điều rất mỏng manh và cũng không dễ gì có được. Trương Đăng Dung đã thể hiện điều này qua kết cấu đầy thú vị của bài thơ Ảo ảnh. Mở đầu bài thơ tác giả đã giới thiệu về một hiện thực đầy nghịch lí:
Bao năm rồi anh tìm em
Trong những bình minh không có mặt trời
Trong những lâu đài chỉ có cánh dơi
Trong những giấc mơ không đầu không cuối.

Khổ thơ tiếp theo được mở đầu bằng một mệnh đề nghi vấn: Anh hỏi dòng sông về hạnh phúc trên đời. Đến cuối khổ thơ, câu trả lời có được là hai từ Nước mắt. Vậy là, theo Trương Đăng Dung, cuộc đời trong xã hội này đồng nghĩa với nước mắt, khổ đau, còn hạnh phúc chỉ là ảo ảnh.

Cũng trong bài thơ này, tác giả mở đầu bằng hình ảnh bình minh không có mặt trời, đến cuối bài thơ tác giả lại kết thúc bằng hình ảnh ánh nắng nhạt nhòa thấp thoáng bên khung của. Cái kết cấu khép kín này đã mở ra cho người đọc nhiều suy nghĩ về một xã hội không có gì chắc chắn, không có gì rõ ràng, không có gì bất tử. Tất cả chỉ nhạt nhòa tựa như ảo ảnh.

Buồn đau, không hài lòng với thực tại xã hội loài người, nhưng Trương Đăng Dung không có cảm giác bi lụy khi đối diện với hiện thực ấy. Là một người lạc quan, yêu đời, ông luôn ấp ủ niềm khát vọng về một thế giới bình yên. Khi cuộc sống này có quá nhiều Những bức tường, khi xã hội này đầy nắng, mưa và gió,... Trương Đăng Dung vẫn âm thầm hy vọng về một thế thái nhân tình ấm áp nghĩa tình. Ông dặn con và cũng là để nhắc nhở chúng ta:
Bố chỉ mong trái tim con đừng bao giờ lạc lõng
Trước mọi vui buồn bất hạnh của thời con
                                    (Viết cho con).

Có thể nói rằng, mỗi câu, mỗi chữ của Trương Đăng Dung đều ẩn chứa một nét buồn, và cả tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng của ông là một khối buồn về thế thái nhân tình. Nỗi buồn của Trương Đăng Dung có cội nguồn từ một ý thức trách nhiệm cao đối với cuộc đời, con người. Nỗi buồn ấy cũng cho thấy những khát khao muốn cải tạo, muốn thay đổi để mai này cuộc đời sẽ tốt đẹp hơn. Nếu nói mỗi nhà thơ là một nhà tư tưởng, thì điều đó quả rất đúng với Trương Đăng Dung. Với tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng ông đã chứng tỏ được tầm cao tư tưởng của mình.

Nói về nghệ thuật biểu đạt trong tập thơ, chúng tôi thấy Trương Đăng Dung có một lối diễn đạt rất giản dị nhưng cũng rất mới mẻ. Lời thơ của ông thiên về kể, nhưng ông không kể tràn lan, ông chỉ điểm nhãn một số hiện tượng nổi bật mà ông đã trải nghiệm và chứng kiến trong đời nhưng không làm mất vẻ đẹp hàm súc vốn là đặc tính của thơ. Câu chữ của Trương Đăng Dung vừa giàu tính biểu tượng, lại vừa giàu sức gợi cảm. Với Trương Đăng Dung, thơ chỉ đơn giản là một trò chơi ngôn ngữ:
Ngôn từ kết nối
Phân chia,....
Và ngôn ngữ
tự do tạo nghĩa

Những gì thơ muốn nói thì người nghe tự hiểu.

Thơ luôn mang đặc tính ý tại ngôn ngoại, thơ hay lại càng nhiều bí ẩn. Những gì tác giả bài viết này thể hiện trên đây cũng chỉ là một góc nhìn, một cách nhìn về tập thơ Những kỉ niệm tưởng tượng. Những mong bạn đọc gần xa sẽ tiếp tục kiếm tìm và sẻ chia những điều bí mật đang tiềm ẩn trong tập thơ này.
                                                                                   
Thành sen, tháng 8 năm 2011
N.T.Đ












Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.