Nỗi buồn nhân thế của Trương Đăng Dung

15:12 26/08/2011
NGUYỄN TRỌNG ĐỨC (Cảm nhận về tập thơ "Những kỷ niệm tưởng tượng")SHO - Lâu nay, người ta biết đến Trương Đăng Dung với tư cách là một nhà nghiên cứu lí luận văn học. Nhưng gần đây, sự xuất hiện của tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng làm xôn xao văn đàn Việt Nam đã khiến đông đảo bạn đọc không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra rằng: bên cạnh một Trương Đăng Dung lí luận còn có một Trương Đăng Dung thơ.

Nhà thơ Trương Đăng Dung

Có thể nói rằng ở Trương Đăng Dung, lí luận và thơ là hai thái cực khác nhau nhưng lại có sự xuyên thấm hài hòa; những công trình lí luận của ông không cứng nhắc trên lí thuyết, mà đã có sự tác động tích cực vào đời sống văn học nước nhà; còn với thơ, dù mới chỉ trình làng tập thơ đầu tay, nhưng Trương Đăng Dung đã chứng tỏ được tài năng của một cây bút có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư tưởng và cảm xúc, giữa chất trí tuệ và độ mặn mà của tâm tư tình cảm. Đó là chưa kể đến một lối diễn đạt mới lạ mang đậm dấu hiệu của Chủ nghĩa Hậu hiện đại.

Những kỷ niệm tưởng tượnglà một tập thơ hiện thực - sản phẩm của một tâm hồn lãng mạn, là nỗi lòng thất vọng về hiện thực đang diễn ra, và niềm khát vọng về một hiện thực bình yên, hạnh phúc trong tưởng tượng. Những ai không trải nghiệm đắng cay, gian khổ trong đời, những ai dửng dung với cuộc đời và tình người thì không dễ cảm được những điều tác giả gửi gắm trong tập thơ này.

Đến với Những kỷ niệm tưởng tượng của Trương Đăng Dung, chúng tôi nhận ra trong cái dòng chảy trầm buồn của thơ ông một chiều sâu tư tưởng. Bao trùm lên tập thơ này là một nỗi buồn nhân thế. Nỗi buồn ấy được thể hiện ở nhiều trạng thái khác nhau. Có khi đó là sự hoài niệm về quá khứ, về hình ảnh dòng sông và dòng đời thủa thiếu thời, khi người với người sống với nhau đầy ắp nghĩa tình:
Anh trở về với bến sông xưa,
Em không nhớ thời gian nước chảy
Anh không biết những ngày thơ bé ấy
Những giọt nước qua má, qua môi
Rơi xuống bàn tay ấm nóng hơi người.
                                 (Có thể)

Và hình ảnh người mẹ với đức hy sinh cao cả cũng làm cho Trương Đăng Dung cháy lòng:
Có một thời
Đến bữa cơm mẹ ngồi đợi vét nồi
Răng mẹ rụng lúc nào không biết nữa.
                               (Có một thời)

Quá khứ thật nhiều gian khổ, nhưng Trương Đăng Dung không buồn vì sự gian khổ ấy, ông chỉ buồn vì sự đổi thay của xã hội và tình đời đã làm cho cuộc sống trở nên nhạt nhẽo, những giá trị tinh thần, những dấu tích văn hóa truyền thống đã trở nên phai nhạt:
Hơn nửa thế kỷ đi lại trên mặt đất này
Tôi không còn nhiều bạn
Cây gạo đầu làng cũng bị chặt mất rồi
Tôi không còn kí ức
Những giọt máu cuối trời tuổi thơ...
                   (Ghi chép hè 2009)

Điều đáng nói là lúc hoài niệm về quá khứ lại là lúc mà tác giả thiết tha với cuộc đời hơn. Ông viết:
Anh không thấy thời gian trôi
Chỉ thấy lòng ngày một tha thiết với trời xanh
                 (Anh không thấy thời gian trôi)

Nỗi buồn nhân thế của Trương Đăng Dung có khi lại thể hiện ở những khắc khoải về kiếp người ngắn ngủi. Trạng thái này được lặp lại nhiều lần như một nỗi ám ảnh của tác giả. Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy thật đúng đắn khi bàn về vấn đề thời gian trong tập thơ này; đó không phải là thời gian bên ngoài như nỗi ám ảnh của các nhà Thơ mới, mà trong tập thơ này, tác giả quan niệm thời gian ở trong máu, trong khóe mắt, làn môi, trong dáng đi,... Thời gian chính là con người. Tác giả tập thơ dường như cảm nhận được bước đi rất nhanh của thời gian trong cơ thể mình. Bởi vậy mà ông luôn khắc khoải, lo sợ.
Anh không thấy thời gian trôi
Thời gian ở trong máu, không lời
Ẩn mình trong khóe mắt, làn môi
Trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang
viết lên mặt đất thành lời
về kiếp người ngắn ngủi.
           (Anh không thấy thời gian trôi)

Ý thức được bước đi của thời gian và sự ngắn ngủi của kiếp người, Trương Đăng Dung càng day dứt bởi những việc ấp ủ, những khát vọng còn chưa kịp thành hiện thực:
Sợi tóc rụng bàn tay nào giữ được
Mỗi ban mai khắc khoải việc chưa thành.
            (Anh không thấy thời gian trôi)

Những khắc khoải, lo sợ về kiếp người ngắn ngủi càng cho thấy tấm lòng hết mực yêu đời và tư tưởng lớn, khát vọng lớn của Trương Đăng Dung.

Đọc Những kỷ niệm tưởng tượng của Trương Đăng Dung, chúng tôi thấy một trạng thái tư tưởng, cảm xúc được thể hiện tập trung và xuyên suốt tập thơ, đó là nỗi buồn, sự thất vọng trước hiện thực đời sống con người và xã hội. Khi hoàn niệm về quá khứ, Trương Đăng Dung tiếc nuối đến cháy lòng, lúc trở về hiện tại, ông đau đớn vô cùng bởi đâu đâu trên thế gian này cũng thấy chiến tranh, chết chóc, đói khổ, sự bon chen, chia lìa, đơn chiếc, lạnh lùng, đỗ vỡ; đâu đâu cũng đầy những trái ngang, phi lí,...

Trên dòng đời hối hả mấy ai dừng lại để thổn thức trước nỗi đau của đồng loại trên khắp thế gian này như tác giả của Những kỷ niệm tưởng tượng. Ông nhìn đâu cũng thấy đau thương. Đơn giản nhất là nỗi đau vì những toan tính mưu sinh, những gian nan vất vả của kiếp người:
Còn đây gương mặt của con người
Nhàu nát mưu sinh và hy vọng. 
           (Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi)

Kế đến là nỗi đau sự đói khổ, túng thiếu:
Ngày ta sinh là ngày đầu tiên ta nằm bệnh viện
Các bác sĩ hân hoan khi có trẻ ra đời
Họ lấy nhau của mẹ ta làm đồ nhắm rượu.
Các nữ y tá nhìn ta
Kinh nguyệt chảy màu máu còn tươi rói
Không có bông, họ lấy tà áo choàng lau vội.
                     (Những kỷ niệm tưởng tượng)

Và nỗi đau của những cảnh ngộ:
Anh đã thấy những người dị dạng
Dang tay đòi hái mặt trời
Những bóng ma thọt chân, lang thang
Đòi trở về quê cũ,...
                       (Chân trời)

Cuộc đời vốn đã lắm gian nan, cớ sao con người lại chuốc thêm nhiều đau khổ, gây nên cảnh loạn lạc, và chiến tranh đãm máu. Đây là hậu quả của chiến tranh mà Trương Đăng Dung đã tái hiện một cách đau đớn và khủng khiếp đến ghê người:
.....và những chuyến tàu chở đầy ắp vũ khí
Trên nóc toa là trẻ nhỏ người già.
Cùng nhau thấy những đám tang không có hòm
chân người chết thò ra khỏi chiếu
cùng nhau thấy những người mẹ bị thương ruột lòi ra
vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh nhau chỗ ngồi với rắn,                                 
và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo,...
                                   (Những kỷ niệm tưởng tượng)

Thánh đường Hồi giáo lẽ ra là nơi ban phát đức tin và tình yêu thương che chở của chúa, nhưng Trương Đăng Dung lại nhìn thấy:
Bom nổ ở một thánh đường Hồi giáo
Máu người nhuộm đỏ sách Kinh.
                      (Ghi chép hè 2009)

Trong bài Giấc mơ của Kafka, tác giả lại một lần nữa nhấn mạnh sự phi lí của xã hội loài người trong bối cảnh hậu hiện đại:
Ở New York chiều chiều
Những con voi nhảy từ tầng mười một xuống sông
cứu những con chim sẻ.

Ở Paris trước cửa Viện bảo tàng
Người nằm ngáp
Trâu xếp hàng mua cỏ.

Ở Moskva những thiếu phụ da vàng
Chơi với hổ
Trên quãng trường ngập nước

Ở Tokyo nữ phát thanh viên truyền hình
Không có miệng
Huơ tay chào khán giả...

Chính những nơi được xem là văn minh nhất của thế giới lại là nơi ngập tràn những điều phi lí, trái ngang. Loài người đang đi đâu, về đâu? Hướng đến sự văn minh, hay đang đi ngược lại quy luật sinh tồn và phát triển. Trương Đăng Dung đau buồn trước hiện thực nhân loại "càng bước càng lún sâu vào đất".

Hiện thực cuộc sống vốn nghiệt ngã, lạnh lùng, lẽ ra con người phải xích lại gần nhau. Vậy mà vẫn còn đó cảnh khi cánh cửa nhà này mở ra/ cánh cửa nhà kia khép lại (Những người đàn bà), người với người đi theo hàng dọc, nên chẳng bao giờ họ gặp được nhau. Viết những dòng thơ như thế, Trương Đăng Dung dường như muốn gửi đến người đọc chúng ta một thông điệp giàu ý nghĩa nhân sinh: đời vô cảm thì con người cần phải hữu cảm, có như thế cuộc sống này mới bớt thương đau.

Hiện thực xã hội đang đỗ vỡ từng ngày đã nằm ngoài sức tưởng tượng của Trương Đăng Dung, khiến ông không chỉ buồn, không chỉ đau mà còn ngơ ngác không hiểu nổi. Trong bài thơ Chúa đã ra đi ông viết:
Ta lớn lên ngơ ngác cõi người
Tình thương, thù hận, buồn, vui
Hun hút đường xa cát bụi
Người đi không biết về đâu

Điều kì lạ vẫn là thế giới
Tôi lặng nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ
Chúa đã ra đi
Chúa không thể nào ngờ.

Trong một xã hội đầy nghịch lí như thế, hạnh phúc là điều rất mỏng manh và cũng không dễ gì có được. Trương Đăng Dung đã thể hiện điều này qua kết cấu đầy thú vị của bài thơ Ảo ảnh. Mở đầu bài thơ tác giả đã giới thiệu về một hiện thực đầy nghịch lí:
Bao năm rồi anh tìm em
Trong những bình minh không có mặt trời
Trong những lâu đài chỉ có cánh dơi
Trong những giấc mơ không đầu không cuối.

Khổ thơ tiếp theo được mở đầu bằng một mệnh đề nghi vấn: Anh hỏi dòng sông về hạnh phúc trên đời. Đến cuối khổ thơ, câu trả lời có được là hai từ Nước mắt. Vậy là, theo Trương Đăng Dung, cuộc đời trong xã hội này đồng nghĩa với nước mắt, khổ đau, còn hạnh phúc chỉ là ảo ảnh.

Cũng trong bài thơ này, tác giả mở đầu bằng hình ảnh bình minh không có mặt trời, đến cuối bài thơ tác giả lại kết thúc bằng hình ảnh ánh nắng nhạt nhòa thấp thoáng bên khung của. Cái kết cấu khép kín này đã mở ra cho người đọc nhiều suy nghĩ về một xã hội không có gì chắc chắn, không có gì rõ ràng, không có gì bất tử. Tất cả chỉ nhạt nhòa tựa như ảo ảnh.

Buồn đau, không hài lòng với thực tại xã hội loài người, nhưng Trương Đăng Dung không có cảm giác bi lụy khi đối diện với hiện thực ấy. Là một người lạc quan, yêu đời, ông luôn ấp ủ niềm khát vọng về một thế giới bình yên. Khi cuộc sống này có quá nhiều Những bức tường, khi xã hội này đầy nắng, mưa và gió,... Trương Đăng Dung vẫn âm thầm hy vọng về một thế thái nhân tình ấm áp nghĩa tình. Ông dặn con và cũng là để nhắc nhở chúng ta:
Bố chỉ mong trái tim con đừng bao giờ lạc lõng
Trước mọi vui buồn bất hạnh của thời con
                                    (Viết cho con).

Có thể nói rằng, mỗi câu, mỗi chữ của Trương Đăng Dung đều ẩn chứa một nét buồn, và cả tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng của ông là một khối buồn về thế thái nhân tình. Nỗi buồn của Trương Đăng Dung có cội nguồn từ một ý thức trách nhiệm cao đối với cuộc đời, con người. Nỗi buồn ấy cũng cho thấy những khát khao muốn cải tạo, muốn thay đổi để mai này cuộc đời sẽ tốt đẹp hơn. Nếu nói mỗi nhà thơ là một nhà tư tưởng, thì điều đó quả rất đúng với Trương Đăng Dung. Với tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng ông đã chứng tỏ được tầm cao tư tưởng của mình.

Nói về nghệ thuật biểu đạt trong tập thơ, chúng tôi thấy Trương Đăng Dung có một lối diễn đạt rất giản dị nhưng cũng rất mới mẻ. Lời thơ của ông thiên về kể, nhưng ông không kể tràn lan, ông chỉ điểm nhãn một số hiện tượng nổi bật mà ông đã trải nghiệm và chứng kiến trong đời nhưng không làm mất vẻ đẹp hàm súc vốn là đặc tính của thơ. Câu chữ của Trương Đăng Dung vừa giàu tính biểu tượng, lại vừa giàu sức gợi cảm. Với Trương Đăng Dung, thơ chỉ đơn giản là một trò chơi ngôn ngữ:
Ngôn từ kết nối
Phân chia,....
Và ngôn ngữ
tự do tạo nghĩa

Những gì thơ muốn nói thì người nghe tự hiểu.

Thơ luôn mang đặc tính ý tại ngôn ngoại, thơ hay lại càng nhiều bí ẩn. Những gì tác giả bài viết này thể hiện trên đây cũng chỉ là một góc nhìn, một cách nhìn về tập thơ Những kỉ niệm tưởng tượng. Những mong bạn đọc gần xa sẽ tiếp tục kiếm tìm và sẻ chia những điều bí mật đang tiềm ẩn trong tập thơ này.
                                                                                   
Thành sen, tháng 8 năm 2011
N.T.Đ












Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 839 ra ngày 01-12-2013 có đăng  bài Kỷ niệm về một bài thơ & một câu hỏi chưa lời giải đáp của Nguyễn Cẩm Xuyên. Vấn đề nêu lên rất thú vị: đó là cách hiểu chữ giá trong bài thơ Cảnh nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ này trong nguyên văn chữ Nôm không có tên gọi. Những người soạn giáo khoa đã căn cứ vào nội dung đặt tên cho bài thơ là Cảnh nhàn và đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường trước đây.

  • Ký ức về những tháng ngày mải miết hành quân trên đất Campuchia, những phút giây nén lòng nhớ về quê hương, gia đình… vẫn chưa bao giờ nhạt phai trong tâm thức những người cựu chiến binh Đoàn 367 đặc công-biệt động trong kháng chiến chống Mỹ năm xưa.

  • LÊ VIỄN PHƯƠNG

    (Nhân đọc Thơ Việt Nam hiện đại, tiến trình & hiện tượng của Nguyễn Đăng Điệp, Nxb. Văn học, 2014)

  • Cuốn Minh triết Việt trong văn minh Đông phương của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhằm mục đích góp phần làm sáng tỏ cội nguồn văn hiến của dân tộc Việt qua sự phân tích những di sản văn hóa truyền thống bằng các phương pháp mang tính khoa học.

  • 17 chân dung các nhà học thuật Việt Nam thế kỷ 19 và 20 qua các tiểu luận nghiên cứu ẩn dưới dạng thức tùy bút của  Đỗ Lai Thúy đủ sức vẫy vào nhận thức người đọc hôm nay những vỡ lẽ mới.

  • Giáo sư hy vọng độc giả cũng cảm thấy như mình khi đọc "Lòng người mênh mang" bởi các trang viết chứa đựng những sự thật không thể chối cãi.

  • Tác giả Phạm Xuân Hiếu sử dụng vốn sống, kiến thức về văn hóa, cổ vật khi viết những truyện ngắn trong sách "Cây đèn gia bảo".

  • LÊ HUỲNH LÂM  

    Có một bạn trẻ hỏi rằng: làm thế nào để viết thật hay? Tôi nói như phản xạ, trước hết tác giả phải có đời sống văn chương.

  • NGỌC THANH 

    Có một nhà thơ, nhà hoạt động cách mạng đầy nhân cách đi ra từ Huế song rất ít người ở Huế biết tới, đó là Trần Hoài Quang - nguyên Trung đoàn phó và chính trị viên Trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật (E95), nguyên Phó ban Tuyên huấn Thừa Thiên, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang và Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên… Ông hiện có một người con trai đang ở Huế.

  • “Như vậy đó, hiện đại và hoang sơ, bí ẩn và cởi mở, giàu có và khó nghèo chen lẫn, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện lên trước mắt ta, ngồn ngộn sức sống”. Nhà báo, nhà văn Phan Quang đã thốt lên như vậy cách đây gần 40 năm, khi ông lần đầu đặt chân đến vùng đồng bằng châu thổ. Những điều ông viết về ĐBSCL ngày ấy - bây giờ còn tươi mới tính thời sự, lan tỏa và trường tồn với thời gian.

  • ĐẶNG HUY GIANG

    Thói quen, nói cho cùng, là sản phẩm của quá khứ, là những gì lặp đi lặp lại, không dễ từ bỏ.

  • Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi...

  • BÍCH THU
    (Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)

    Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • Tô Hoài, trong hơn 60 năm viết, thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Đây là kết quả sự hô ứng, sự hội nhập đến từ hai phía: phía chuẩn bị chủ quan của người viết và phía yêu cầu khách quan của công chúng, của cách mạng.

  • Phát hành tập thơ "Khi chúng ta già" sau scandal với Phạm Hồng Phước, tác giả Nguyễn Thị Việt Hà khẳng định thơ mình không cần ăn theo sự kiện gì.

  • Tác giả Tử Đinh Hương thực hiện bộ sách "Biểu tượng" với mong muốn khám phá, lưu giữ và khuyến khích trẻ nhỏ quan tâm hơn đến thế giới xung quanh.

  • Sách được các sư cô Thiền viện Viên Chiếu lược dịch, biên soạn từ nhiều nguồn tư liệu, chủ yếu là tư liệu chữ Hán, tiếng Anh, giúp người đọc hiểu thêm con đường tu tập của pháp sư Huyền Trang.

  • Soạn tâm thế an nhiên khi bước vào tuổi già, nhẹ nhàng đón đợi niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống... là điều mà trang viết của vị bác sĩ mê văn thơ đem đến cho độc giả.

  • Phó giáo sư Đỗ Lai Thúy thông qua cuốn sách "Vẫy vào vô tận" đã giới thiệu 17 chân dung các nhà văn hóa, nhà nghiên cứu có đóng góp cho con đường học thuật và tư tưởng của đất nước.

  • BỬU NAM

    Nguyễn Quang Lập - Trần Thùy Mai - Ngô Minh - Phạm Tấn Hầu - Nguyễn Quang Vinh - Hoàng Thị Duyên(*)