CARLOS SPOERHASE
Ta có thể đánh giá Louise Glück qua các tác phẩm mà bà đã xuất bản trong vòng 5 thập niên vừa qua, vốn đã được trao tặng những giải thưởng văn học danh giá nhất nước Mỹ.
Ảnh: internet
Bà đã công bố 12 tập thơ và 2 tập tiểu luận, đã nhận được sự hưởng ứng rất lớn từ công chúng học thuật và văn học Mỹ. Giờ đây, bà còn vinh hạnh được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao tặng giải thưởng Nobel Văn học của năm “vì giọng thơ không thể nhầm lẫn vào đâu được, mà với vẻ đẹp khắc khổ của nó, làm cho sự tồn tại cá nhân trở nên phổ quát.”
Vẻ đẹp khắc khổ của thơ Glück không nằm ở hình thức trang trọng của những bài thơ, chủ yếu có tính chất văn xuôi và không tuân theo bất kỳ hình thức cố định nào, mà ở thái độ của nhà thơ: tự vấn bản thân một cách không khoan nhượng. Các tác phẩm của Glück cho thấy xúc cảm trữ tình mãnh liệt từ một cách diễn đạt thường theo kiểu độc thoại, thậm chí đôi khi giống như lời cầu nguyện về nỗi sợ hãi sâu xa và những linh cảm mơ hồ, như trong bài thơ Hình ảnh trong gương (Mirror Image):
“Đêm nay tôi thấy mình trong ô cửa sổ tối như thể
hình ảnh của cha tôi, mà cuộc đời ông
đã trải qua như thế này,
nghĩ về cái chết, đến mức loại trừ
những vấn đề nhục cảm khác,
nên rốt cuộc thì cuộc đời ấy
thật dễ dàng để từ bỏ đi, vì
nó chẳng chứa đựng gì cả.”
Những dòng như vậy lý giải tại sao thơ của Glück đôi khi được mô tả như là chủ nghĩa hiện thực trầm cảm (depressiver Realismus) và chủ nghĩa tối giản mắc phải nỗi sợ bị giam giữ (klaustrophobischer Minimalismus). Bằng một tinh thần không nhượng bộ, bà thể hiện nỗi sợ hãi như một vòng luẩn quẩn vây quanh cuộc đời ta nhưng không hề tiết lộ bản chất của nó là gì, mà trái lại nó khiến ta cảm thấy bụi bặm và vô cảm trước thế giới. Tuy nhiên, theo Glück, sự thôi thúc để đi đến những điều chắc chắn tồn tại là không thể tránh khỏi, đến nỗi bà liên tục cảnh báo bản thân trước nguy cơ của một sự rỗng tuếch nội tâm như được miêu tả trong các bài thơ của mình.
Đối với Glück, những hiểu biết sâu sắc về sự tồn tại mà bà soi sáng trong sự khai phá thơ ca của mình cốt ở chỗ sự vô vọng rất cá nhân của nó luôn có được một đặc tính phổ quát. Thơ của bà đột ngột nhảy từ cái cá nhân sang cái nguyên mẫu. Khi Glück làm sống lại các nhân vật trong thần thoại cổ đại như Orpheus và Eurydice hay Odysseus và Penelope trong các tập thơ của bà ấy, hàng loạt các xung đột tâm lý được thể hiện nơi những nhân vật này ám ảnh tất cả chúng ta không thôi. Thơ của bà còn nhiều lần nói tới những trạng huống cơ bản của con người: mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ, sự nối tiếp giữa các thế hệ, những dấu mốc tiểu sử đáng nhớ của cuộc đời như sinh ra, kết hôn hay mất đi. Thực tế thì danh từ riêng hầu như không bao giờ được sử dụng trong thơ Glück, khuôn mặt của các nhân vật trữ tình không hề mang lấy các đặc điểm của một khuôn mặt riêng biệt; điều này, hẳn nhiên là một sự dụng công ở Glück, ngay cả điều gì đó rất cá nhân cũng đều có mối liên lạc với điều gì đó rất phổ quát.
Tuy nhiên, Louise Glück phải trả giá đắt cho sự dụng công mỹ học này của mình trong việc biến sự tồn tại cá nhân trở nên phổ quát: Những bài thơ của bà miêu tả những nỗi ưu phiền của cuộc đời, nhưng thường vẫn khá trừu tượng và rất nghèo nàn trong việc mô tả các chất liệu cảm xúc về thế giới. Khuôn mặt của người cha nơi hình ảnh trong gương mà bà nhận ra bản thân mình là gì?
Glück nhận thấy rằng việc thiếu đi khía cạnh mô tả ấy trong các bài thơ của bà lại là một vấn đề mỹ học. Nó dựa trên sự hoài nghi sâu sắc về nhục cảm, điều mà bà cố gắng vượt qua trong những bài thơ như Quả đào chín (Ripe Peach). Ngoài cuộc mưu cầu trí tuệ về điều gì đó phổ quát, người ta còn có niềm vui bất ngờ khi ăn một loại trái cây nào đó: “trải nghiệm./ [Để thấy rằng] cái miệng tục tĩu/ đang đói đến cùng cực”. Quả đào tượng trưng cho sự sẵn có của một vị ngọt rất dễ thay đổi ngay lập tức: chẳng có gì bền vững trước ý thức cả, trừ một niềm vui tạm thời không thể cất giữ. Sự can đảm để nắm bắt kinh nghiệm cảm xúc trong những bài thơ của mình ngay cả khi không có một thứ gì hữu hình còn sót lại cả đã chi phối giọng thơ của Glück trong nhiều năm liền: “Có/ một quả đào trong giỏ đan lát./ Có một bát trái cây./ Năm mươi năm. [Như] Một cuộc đi bộ dài đằng đẵng/ từ khung cửa đến cái bàn.” Ngay cả trong bài thơ “Quả đào chín”, bà chưa thể làm điều đó hoàn toàn dựa vào nhận thức cảm tính về chúng. Quả đào tròn bỗng trở thành biểu tượng của trái đất, nơi mà trải nghiệm cảm xúc của ta được ghi lại ở trong ý thức.
Tác phẩm thơ trữ tình mà Glück đã tạo ra trong vài thập niên qua chứa đựng những dấu mốc quan trọng trong chặng đường khó khăn này, từ những bài thơ đơn điệu và súc tích trong tác phẩm ban đầu của bà cho đến những tập thơ đa góc nhìn trong tác phẩm sau này, gần đây nhất là trong A Village Life, đều đề cập đến sự xúc cảm của việc bắt gặp một thế giới rộng lớn hơn như thế.
Tuy nhiên, tại sao tác phẩm của Glück lại rất ít được dịch và đọc ở Đức? Điều này có thể liên quan đến thực tế là sức ảnh hưởng của Glück phụ thuộc vào những độc giả sẵn sàng nhận ra những ưu phiền được mô tả trong các bài thơ của bà. Thái độ đọc kiểu như thế bị hoài nghi như là một thái độ đọc có tính hàn lâm hơn ở đất nước này và điều đó khiến cho khoảng cách phê bình trở thành yêu cầu cơ bản cho mọi trải nghiệm thẩm mỹ. Đây chính xác là cách mà các bài thơ của Glück được đọc ở Mỹ tốt hơn là ở Đức. Học giả văn học và nhà thơ nổi tiếng người Mỹ Maureen McLane mô tả những bài thơ của Glück như những người bạn đồng hành thân thiết trong những giai đoạn trầm cảm của cuộc đời; và nhân vật chính tìm kiếm ý nghĩa trong cuốn sách best-seller Eat Pray Love của Elizabeth Gilbert đã để bản thân được nâng lên nhờ vào thơ của Glück: “Tôi đặt cuốn sách vào lòng và rùng mình một cách nhẹ nhõm.”
Trong các bài tiểu luận của bà, Glück tự biện hộ một cách đọc riêng để tự do đồng nhất những ưu phiền của giọng thơ ấy với phong cách của riêng mình. Ở đó, bà phân biệt mình với Sylvia Plath, người có những bài thơ tìm cách tự tạo ra khoảng cách với độc giả, và cảm thấy gần gũi hơn với Emily Dickinson, người cho phép độc giả nhận ra chính mình trong số phận đầy cam go của thơ ca trong việc xác lập một giọng điệu riêng. Những bài thơ của Glück xoay quanh nỗi cô đơn hiện sinh, chúng tự coi mình như là những người bạn đồng hành của tất cả các độc giả cô đơn. Trong bài thơ Tháng Mười (Oktober), cái tôi trữ tình “du hành dưới tàu điện ngầm với cuốn sách nhỏ của mình/ như thể để tự biện hộ cho mình chống lại/ chính thế giới này:/ bạn không đơn độc,/ bài thơ đã nói/ trong đường hầm tối tăm”.
Sự đảm bảo “bạn không đơn độc” ấy khiến tập thơ trở thành người bạn đồng hành của những con người cô đơn. Theo Glück, những hình ảnh đau buồn tối tăm mà nó chứa đựng mang lại một hình thức cho “sự tàn phá”. Liệu cách nói này có ngược lại với cách nói về một thứ “bóng tối phi hình thức” mà những thứ vô giá trị khiến ta phải đau buồn hay không? Có lẽ đối với những độc giả mang trong mình quan niệm văn học được đào tạo thiên về mỹ học phê bình, thì những người phản đối điều đó thường là những độc giả không có khả năng phê bình về giọng điệu thơ ca. Tuy nhiên, liệu việc cảm thụ văn học của chúng ta sẽ trở nên cạn kiệt đi nếu chỉ tập trung vào việc đọc thôi hay không khi mà nó cho phép vừa tạo ra một khoảng cách thẩm mỹ và vừa xem nhẹ độc giả, vốn là những người nhận thấy nhu cầu tình cảm bức thiết nhất của họ luôn được phản ánh trong các bài thơ?
Xuân Cao
Dịch từ: Louise Glück: Du bist nicht allein (zeit.de).
(TCSH381/11-2020)
TRẦN THÙY MAI.Năm giờ sáng, máy bay chở chúng tôi đáp xuống sân bay Incheon. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên vang lên với lời cảm ơn và câu chào tạm biệt, sau khi báo một thông tin làm chúng tôi ớn lạnh: Nhiệt độ bên ngoài là 4 độ C...
ĐẶNG NHẬT MINHLà một thương cảng của Nhật Bản, nhưng Fukuoka lại được nhiều người biết đến như một thành phố của nhiều hoạt động văn hoá mang tầm quốc tế. Tôi có duyên nợ với thành phố này từ năm 1991 khi được mời tham dự Liên hoan phim quốc tế Fukuoka lần thứ nhất với bộ phim Bao giờ cho đến tháng 10.
PHẠM XUÂN PHỤNGChữ tea trong tiếng Anh là do dùng mẫu tự La -tinh để ký âm chữ trà (âm Hán Việt) mà người Trung Hoa nói rất rõ là chè. Lâu nay cứ tưởng chè là tiếng thuần Việt hoặc là biến âm của trà, hóa ra chè lại là từ gốc của trà. Mẹ mà nhầm là con, vui thật.
BÙI NGỌC TẤNLần đầu tiên đặt chân tới Châu Âu, có biết bao nhiêu ấn tượng. Ấn tượng về những nét mặt người, về những dáng người đi, về bầu trời không vẩn bụi trong veo, về những xa lộ, về những chiếc xe phóng với tốc độ 140 kilômét không một tiếng còi, nối nhau trên các con đường tám đến mười làn xe chạy không còn biên giới cách ngăn...
NGUYỄN VĂN DŨNGCó người nói Praha đẹp hơn Paris . Tôi không tin. Nhưng bây giờ thì tôi thấy nhận xét ấy không phải không có căn cứ. Praha là thành phố cổ kính nguyên vẹn nhất châu Âu, là “thành phố của trăm tháp vàng”, là “bài thơ bằng đá”, là khúc hát đắm say, là cốc rượu nồng nàn, là bức tranh tuyệt mĩ, là mảnh thời gian còn sót lại... Năm 1992, Praha được công nhận là di sản văn hoá thế giới.
PHẠM THỊ CÚCCó người nghĩ rằng, ở các nước giàu, thì ít người thất nghiệp. Không đâu, ở Pháp, người thất nghiệp cũng khá nhiều, mà đâu phải vì không có bằng cấp mà thất nghiệp, đa số họ đều có bằng kĩ sư, cử nhân, cả thạc sĩ hẳn hoi.
NGUYỄN VĂN DŨNGAmazon là tên khu rừng lớn nhất thế giới. Amazon cũng là tên con sông, theo khảo sát mới đây, là con sông dài nhất thế giới. Amazonas, quê hương của hai Amazon kia, là bang rộng nhất trong 26 tiểu bang của Brasil - rộng hơn cả diện tích của nước Anh, Đức, Pháp, Ý cộng lại. Còn Manaus, là kinh đô của Amazonas miên man núi rộng sông dài.
NGUYỄN VĂN DŨNG Tôi thật sự xúc động khi đứng trước ngôi mộ của Lý Tiểu Long. Trước đây tôi hình dung nơi an nghỉ cuối cùng của anh phải là một ngôi đền cực kỳ tráng lệ cho xứng với tên tuổi lẫy lừng của anh. Sau khi anh mất, một tờ báo ở Sài Gòn hồi đó viết đại loại trong thế kỷ XX, anh là một trong ba nhân vật nổi tiếng nhất châu Á.
NGUYỄN VĂN DŨNGVới Phật giáo, Linh Thứu là ngọn núi thiêng. Sau khi thành đạo, một thời gian dài Linh Thứu là trú xứ của đức Phật và các đệ tử của Ngài. Tại đây Ngài đã giảng kinh Pháp Hoa và nhiều bộ kinh quan trọng khác. Linh Thứu còn là nơi khởi phát dòng Thiền Ấn Độ để rồi từ đây hạt giống Thiền được gieo trồng khắp nơi trên trái đất.
PHẠM PHÚ PHONGTrong lịch sử đất nứơc Trung Hoa có sáu nơi được chọn làm thủ đô, theo thứ tự Lạc Dương, Tây An, Nam Kinh, Khai Phong, Hàng Châu và Bắc Kinh là thủ đô thứ sáu, tồn tại cho đến ngày nay. Bắc Kinh đầu tiên là kinh đô của nước Yên, nên còn gọi là Yên Kinh, sau đó đến thời Minh Thành Tổ cho xây dựng trở thành Bắc Kinh ngày nay. Với diện tích 18.826 km2, Bắc Kinh rộng gấp 18 lần so với thủ đô Hà Nội, được mệnh danh là thành phố bốn nhiều: nhiều người, nhiều xe, nhiều cầu vượt, nhiều di tích...
Từ một trại lính đầy vết đạn ở vùng California (Hoa Kỳ) đã xuất hiện một tu viện Phật giáo - Tu viện Lộc Uyển - do nhà sư gốc Huế - Thiền sư Thích Nhất Hạnh - gầy dựng. Tại đây, ảnh hưởng của Thiền học Việt Nam đã tạo được một sự chuyển hóa đầy thử thách: biến trung tâm luyện tập bắn súng trở thành thiền đường đầy ánh sáng và tình thương, có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiếu người ở Hoa Kỳ.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Teresa Wattanabe đã đăng trên tờ Los Angeles Times, tờ nhật báo lớn hạng ba của Hoa Kỳ, với bản dịch của Làng Mai và ảnh của Nguyễn Đắc Xuân để giới thiệu với bạn đọc như một dòng chảy của văn hóa Phật giáo xứ Huế.
TRẦN THÙY MAICác quan chức ngành khí tượng Nhật Bản đã cúi gập mình xin lỗi toàn dân: Hoa anh đào sẽ nở ngày 23 thay vì 16 - 3 như dự báo. Đến sân bay Narita vào đúng sáng 24, tôi tự nghĩ mình đến rất kịp thời, nên khi cậu cảnh sát làm thủ tục nhập cảnh hỏi về mục đích đến Nhật, tôi đã không ngần ngại trả lời chắc nịch: “Ngắm hoa anh đào”. Cậu cảnh sát khoanh cái rụp vào lời khai của tôi và “OK” ngay với một nụ cười trên môi.
NGUYỄN VĂN DŨNGNằm giữa trung tâm bán đảo Iberia, thủ đô Tây Ban Nha trải rộng trên các ngọn đồi dưới chân rặng Sierra de Guadarrama, ở độ cao 640m so với mặt nước biển - là thành phố cao nhất châu Âu. Diện tích 607 km2. Dân số gần 4 triệu người.
KEVIN BOWEN
(Giám đốc WJC)
LTS: Trong 25 năm qua tên tuổi nhiều nhà văn, nhà thơ của Trung tâm William Joiner (Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ) như Kevin Bowen, Fred Marchant, Nguyễn Bá Chung, Lady Borton, Martha Colline, Bruce Weigl, Lary Heinemann... đã xuất hiện trên Sông Hương cũng như trên nhiều báo chí văn nghệ, văn hoá trong nước với những tác phẩm tâm huyết, mến yêu đất nước Việt Nam cũng như những hoạt động trên các lãnh vực giao lưu văn hoá, giúp đỡ y tế, giáo dục cho Việt Nam sau chiến tranh, như những biểu hiện của sự ân hận, tủi hổ với những gì mà đất nước họ đã gây ra trên mảnh đất này.
NGUYỄN BÁ CHUNG
Tháng 10 năm 2007 đánh dấu 25 năm thành lập trung tâm Joiner. Nhưng với tôi, nó đánh dấu một đoạn đường 20 năm nổi chìm với trung tâm, trong đó có 15 năm làm thiện nguyện và 10 năm cuối cùng làm việc chính thức. Hai mươi năm là một thời gian dài đủ để nhìn lại, ghi lại một số kỷ niệm và rút ra một số kinh nghiệm để nhìn tới đoạn đường phía trước.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNHoạt động yêu nước ở miền Nam từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi không lạ gì nước Mỹ. Thuở ấy, Phan Ch. anh bạn vong niên của tôi làm phiên dịch ở cơ quan MACV ở Huế từng bảo tôi “Người Mỹ giống như một cậu bé con nhà giàu nhưng thiếu lễ độ”.
VÕ QUÊNhận lời mời của Hội đồng quốc gia vì nghệ thuật truyền thống Hoa Kỳ (National Council for the Traditional Arts), đoàn nghệ sĩ thuộc Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tham dự Festival dân ca dân nhạc tại thành phố Lowell, bang Massachusetts, Hoa Kỳ từ ngày 25-7-1995.
NGUYỄN XUÂN THÂMChúng tôi đến Aten vào cuối tháng chín, mà buổi trưa vẫn còn oi bức như bao trưa miền biển ở Việt . Thanh Tùng và tôi loay hoay mãi vẫn không bắt được taxi để chuyển tiếp đến sân bay nội địa.
NGUYỄN VĂN DŨNGSau Cali tôi định đi Dallas, nhưng rồi chuyển hướng, tôi lên Seattle theo vẫy gọi của bạn bè. Ai ngờ cái thành phố nầy dịu dàng, xanh và đẹp đến vậy. Hèn chi người ta gọi nó là “Thành phố ngọc bích” ( Emerald City ), hay “Mãi mãi xanh tươi” ( Evergreen State ).
PHẠM THƯỜNG KHANHĐầu năm nay khi biết tôi chuẩn bị đi công tác Trung Hoa, em gái tôi, một người thơ gọi điện từ Huế ra bảo: “Anh cố gắng mà cảm nhận vẻ đẹp rực rỡ của văn minh Trung Hoa. Hình như với bệ phóng vững chắc của nền văn minh hàng ngàn năm ấy, người Trung Hoa đang có những cuộc bứt phá ngoạn mục và trong tương lai dân tộc này còn tiến xa hơn nữa”. Là một quân nhân, tôi đâu có được trí tưởng tượng phong phú và trái tim dễ rung động như em tôi, nhưng 10 ngày trên đất nước Trung Hoa đã để lại trong tôi những ấn tượng thật sâu đậm.