ĐOÀN ÁNH DƯƠNG
Trong Điều kiện hậu hiện đại, Jean-Francois Lyotard cho rằng: “Bởi vì người ta không thể biết điều gì xảy ra cho tri thức, tức là sự phát triển và truyền bá nó hiện nay đang gặp phải những vấn đề gì, nếu không biết gì về xã hội trong đó nó diễn ra.
Ảnh: internet
Và hiện nay hơn bao giờ hết, biết điều gì đó về xã hội nghĩa là trước hết lựa chọn cách nêu câu hỏi, cũng là cách mà nó có thể đưa lại câu trả lời” (Ngân Xuyên dịch, Nxb. Tri thức, 2007, tr.90). Tiểu luận này của tôi, theo gợi dẫn đó, đặt một góc nhìn qua việc khảo sát thực tiễn diễn giải văn học nghệ thuật giai đoạn từ Đổi mới (1986) ở một số sự kiện văn học tạo dư luận nhiều chiều nhằm tìm hiểu về các biểu thuật (representations) được tạo ra bởi di sản tương tác quyền lực/ tri thức và văn hóa giữa Việt Nam với chủ nghĩa thực dân cũ và mới, thời hậu thực dân thể hiện trong sáng tác và diễn giải văn học Việt Nam đương đại, trọng tâm là các thời điểm quan trọng tạo thành bước ngoặt của ý hệ sáng tạo và diễn giải ấy.
Sự khảo sát khởi đầu bằng hai hiện tượng nổi bật những năm đầu Đổi mới, khi vai trò của văn hóa và chính trị đều được nghị sự bởi các trí thức hoạt động trong lĩnh vực xã hội và nhân văn, đặc biệt là nhà văn và nhà lý luận phê bình: Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài. Những tranh luận xung quanh họ lúc này, nhất là với Nguyễn Huy Thiệp, do tính đối thoại quốc tế hạn hẹp dầu đã được kích hoạt bởi Đổi mới, hầu như vẫn chưa vượt ra ngoài ứng xử với truyền thống dân tộc và hiện đại hóa, là quá trình được biết đến trong văn học từ đầu thế kỷ. Với Nguyễn Huy Thiệp, nhận định ban đầu chưa có sự phân hóa “khi ông tướng về hưu xuất hiện”. Thật sự là, ở khởi điểm, ngoài tài năng, Nguyễn Huy Thiệp đã may mắn có được bối cảnh muốn bứt phá khỏi vòng kiềm tỏa của quán tính viết truyền thống, để có thể có được nhiều tiếng nói ủng hộ. Nhưng đến chùm truyện hư cấu lịch sử thì sự phân hóa trong đối tượng tiếp nhận đã trở nên gay gắt. Chủ yếu là trong thái độ của tác giả đối với quá khứ. Ở đấy, vấn đề trao đổi về nhân vật lịch sử và sự hiện diện của phương Tây, cách thức nhìn nhận khác biệt về quan hệ Việt Nam với Trung Hoa, Tây Sơn và triều Nguyễn, thu hút sự chú ý của tôi bởi các ý kiến phản bác rõ ràng mang tâm thế bị “động chạm” tới ý thức truyền thống ẩn khuất bên dưới các vấn đề tranh luận về “viết văn” hay “viết sử”; trong khi đó, ở phía đối lập, câu chuyện lại được thể hiện chủ yếu trên phương diện nghệ thuật trần thuật, dường như với họ, tính chất “mở” của các liên tưởng, dẫn dụ là một điều hiển nhiên khi tác phẩm có được tầm mức nghệ thuật. Vậy là ở đây đã xuất hiện hai cuộc đối thoại: tranh luận trên các vấn đề của tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp; và, tranh đấu trong các nhận định về giá trị xã hội và thẩm mỹ của văn học. Nhận thức về Nguyễn Ánh, Nguyễn Huệ và thực dân đã trở thành mấu chốt của các xung đột. Mọi soi chiếu về văn học, rốt cuộc, đều phải đặt lại vấn đề về nhận thức luận lịch sử, và truyền thống dân tộc cùng vị trí của người phương Tây chiếm trọn sự ưu tư này. Bởi hậu thuẫn cho nó là không khí sôi động của đời sống văn học, khi mà vai trò của văn học và thái độ của văn nghệ sĩ đã được đưa ra bàn luận trong rất nhiều các cuộc bàn tròn, tọa đàm, hội thảo đang gắn chặt với các vấn đề tự chủ và dân chủ trong đời sống và hoạt động văn nghệ. Nó là biểu hiện của ý thức nhận thức lại các nguyên lý văn chương: mối quan hệ với chính trị, hiện thực và phương pháp sáng tác. Do đó, nguyên nhân của sự phân hóa trong nhận định về Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, ngỡ tưởng chỉ chuyên chú ở văn chương, thực sự đã chịu tác động bởi ý thức hệ chính trị và thái độ văn hóa.
Những năm 1990 ghi nhận sự phân hóa sâu sắc tiếp theo với tiểu thuyết của Bảo Ninh. Cái chủ đề được cố tình tô đậm: “thân phận của tình yêu” đã không thể lấn át được hai chủ đề đan lồng với nó: thân phận của chiến tranh và thân phận của nghệ thuật. Và thực chất, sóng gió nổi lên với tiểu thuyết lại nằm ở hai chủ đề đã được cố tình khuất lấp ấy, nhất là ở chủ đề chiến tranh, là cái được nhấn mạnh trong nhan đề thoạt đầu. Không còn là một quá khứ xa (như truyện cổ sử của Nguyễn Huy Thiệp), với tiểu thuyết của mình, Bảo Ninh đã đem đến một cái nhìn khác so với cái nhìn cố hữu về cuộc kháng chiến. Có thể nói, chiều sâu bản thể của nỗi buồn chiến tranh cũng đã không thể cứu rỗi được những đổ vỡ mà tiểu thuyết có thể gợi ra đối với lý tưởng của cuộc đấu tranh và phẩm chất anh bộ đội. Và sự “phản pháo”, hiển nhiên gồm cả những người sống trải qua chiến tranh, đã thắng thế với kết quả là sự mất dạng của tiểu thuyết trong vòng gần mười lăm năm. Nó cũng tương tác với một quán tính nữa trong cách đánh giá về nghệ thuật: văn chương được nhìn nhận như là sự thật, ý nghĩa của văn chương được hiểu như tính đích thực của hiện thực được phản ánh. Vậy sự phân hóa trong các nhận định về tiểu thuyết Bảo Ninh cho chúng ta hiểu biết gì? Với tôi, đó là sự đồng quy giữa văn học có chủ đề chiến tranh chống Mỹ với quan niệm sự thật về chiến tranh chống Mỹ. Và khi hào quang chiến thắng vẫn còn hồng tươi, ám ảnh chiến tranh vẫn còn sâu đậm, thì Nỗi buồn chiến tranh vẫn chưa vượt qua được cảm nhận thông thường của một bộ phận người tiếp nhận, cố nhiên.
Sự bứt phá trong nhận thức về văn chương trong mươi năm tiếp theo là đáng kể, tuy vậy, lại phải đối mặt với nhiều vấn đề mới nảy sinh. Đó là hoàn cảnh của Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh. Đi tìm nhân vật là tiểu thuyết thể nghiệm lối viết hiện đại theo truyền thống phương Tây ở nhiều mặt hình thức của nó. Nhưng mặt khác, thật khó mà không để ý tới chủ đề cái cá nhân phải đối mặt thường xuyên với quyền lực thống trị. Có thể chính tính chất “mập mờ” của thứ “quyền lực giấu mặt” được Tạ Duy Anh khắc đậm đã đẩy tiểu thuyết vào tình thế “ngừng phát hành tạm thời”. Có thể thấy trong tiểu thuyết nỗi “sợ hãi” của con người trước một thế lực không hiện rõ nhưng luôn luôn ám ảnh. Nó là biểu hiện đồng thời cũng là nguyên nhân dẫn tới sự đớn hèn: con người bạc nhược tự ngay bản thân nó, khi phải đối mặt với các vấn đề đời sống thuộc về chính nó. Hệ lụy của Đi tìm nhân vật nảy sinh từ đấy: nếu đọc một cách không vụ lợi, tiểu thuyết cho người ta thấy sự bấy yếu mang tính chất bản thể của con người, kêu gọi người ta can đảm, thúc giục người ta vượt lên cái phi lý của hiện tồn; song ngược lại, vẫn có thể ít nhiều chỉ ra được tính chất chống độc quyền, nghĩa là nó sẽ đóng đinh định kiến lên nhân thân nhà văn bằng cách giải mã hạn hẹp các biểu tượng nghệ thuật lấp lửng, đa nghĩa.
Những nỗ lực của Tạ Duy Anh gần như được xem là những nỗ lực văn chương tự thân cuối cùng, khi văn học còn tự tin vào vị thế trung tâm của nó trong tổng thể văn hóa. Nó là bản lề mở vào chặng thứ ba của hành trình văn học đương đại: dần thoát khỏi sự quy chiếu trực tiếp của chính trị văn hóa để đi tìm sự tự trị của mình rồi tự/bị quay lại chịu sự quy chiếu của văn hóa chính trị. Trong xu thế chung của các nước trong khu vực và trên toàn thế giới, khi chủ nghĩa dân tộc ngày càng có sự lan tỏa rộng lớn, lôi kéo vào nó các diễn ngôn ý hệ mà văn học nghệ thuật là một loại hình dễ dàng tạo nên sự hồi ứng, thì việc nghiên cứu văn học như là văn hóa trở nên thực sự cần thiết. Vừa như kết quả của tư duy vừa hồi đáp với quá trình ngoại biên hóa của văn học.
Như vậy là, bằng một lược quy quá trình vận động của việc diễn giải các hiện tượng văn học, đi vào các cột mốc đánh dấu những bước phát triển (hay bước ngoặt), tôi nhận thấy một số vấn đề nảy sinh sát hợp với giả thuyết về sự đổ bóng của ý hệ trong việc đọc. Sự đơn sắc ban đầu của tri thức được sử dụng là một thuận lợi cho khảo sát, chúng sẽ phức tạp hơn rất nhiều khi Việt Nam mở rộng các đối tác quốc tế sau sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu. Chưa biết tới toàn cầu hóa, sự dịch chuyển tri thức lúc này hầu như khá đơn tuyến, chỉ từ thuộc địa sang hậu thuộc địa (dầu hiển nhiên, các nghiên cứu hậu thực dân vẫn chưa hề được tiến hành). Người ta cũng chưa đặt ra vấn đề nghiên cứu mối quan hệ giữa chính trị và văn học trên bình diện tri thức/quyền lực; cái mà họ nói đến trong các quan hệ này vẫn nằm ở bình diện truyền thống: chính trị và văn học là hai hình thái ý thức, có quan hệ với nhau như là các mối quan hệ tinh thần xã hội. Diễn giải về Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài nằm trong bối cảnh đó. Mối quan hệ bộ ba: văn học (như là sản phẩm của phản ánh luận chứ không phải hư cấu/ fiction) - hiện thực (như là tính đích thực/ reality) - chính trị (như là một ý chí/ will chứ không phải một quyền lực/ power) làm thành tiền đề cho việc quy giản việc đánh giá các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài vào các chủ đề “truyền thống dân tộc” và “tính cách tân”. Song từ trong sâu xa, nhận thức văn học phản ánh hiện thực như là cái đích thực, bất chấp việc hiện thực ấy đã được huyền thoại hóa theo chủ nghĩa dân tộc bài thực (anticolonial nationalism) từng có trong lịch sử, đã hé lộ phần nào mặc cảm nhược tiểu (inferiority complex): người ta muốn tôn vinh truyền thống dân tộc và tiếp nhận văn minh nước ngoài trên tinh thần “gạn đục khơi trong”.
Vấn đề quán tính của tinh thần bài thực và mặc cảm nhược tiểu được thể hiện rõ nét hơn với trường hợp của Bảo Ninh. Bởi với Nỗi buồn chiến tranh, cái “lịch sử khác” được nhắc đến là một quá khứ rất gần, mà các chấn thương của nó với tinh thần và tình cảm người dân vẫn còn vô cùng sâu đậm. Bảo Ninh đã viết khác đi với những gì mà một cảm nhận thông thường nếm trải: những di chứng chiến tranh trên thân xác, những thiếu hụt thân nhân bởi những mồ vô chủ nơi chiến trường; theo đó, là sự xúc phạm nhân phẩm những người lựa chọn con đường hy sinh bản thân cho cộng đồng dân tộc. Bảo Ninh đã cắm mầm tiểu thuyết của mình trên mảnh đất mà ngôn ngữ không ưu thế cho tư duy tư biện: thay bằng cái phận người phổ quát người ta chỉ chú trọng đến cái phận người cụ thể; thay bằng cái tang tóc của mọi cuộc chiến tranh người ta chỉ nhấn mạnh đến tinh thần xả thân vì lý tưởng. Đâu là cơ sở cho kiểu diễn giải này? Khó có thể nghĩ khác, với những người lên án Bảo Ninh, có một sự phủ trùm của ý thức “thiêng hóa” lịch sử dân tộc như một tiếp nhận của việc diễn giải lịch sử hiện đại. Bởi trong tiểu thuyết, Bảo Ninh đã để Kiên khẳng quyết: “cuộc chiến tranh thần thánh (ĐAD nhấn mạnh) rốt cuộc đã bù đắp những mất mát anh đã phải chịu” bằng một “nền hòa bình thản nhiên” và “một cuộc sống tầm thường, thô bạo của thời hậu chiến”; mà hệ quả, cố nhiên trong cảm nghĩ của Kiên: “không phải mình đang sống mà là đang bị mắc kẹt lại trên cõi đời này”. Bảo Ninh đã quyết định tách khỏi dàn hợp xướng đó để làm thành một “âm chỏi”, không phải để làm dáng mà thực sự là một phương cách xoa dịu chấn thương chiến tranh. Và đó cũng là cái cớ của những người ủng hộ Bảo Ninh: một tiểu thuyết tài tình, sâu sắc và cảm động.
Khi tái nhận thức không còn là vấn đề ưu trội, thậm chí có thể coi văn học hậu chiến đã giải quyết xong, lịch sử được sáng tạo bởi ý chí quyền lực hầu như lại được mã hóa theo một đường hướng mới: từ tinh thần dân tộc (national spirit) sang tính dân tộc/ bản sắc dân tộc (national character/ identity). Có hai nguyên nhân cơ bản dẫn tới hiện tượng này: thứ nhất, kết hợp với kết quả của một đường hướng trong nghiên cứu văn hóa; thứ hai, đầu thập niên 90, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã, Việt Nam phải mở rộng quan hệ đối ngoại hướng sang thế giới tư bản, tức kẻ thù trong truyền thống. Vậy là câu chuyện trở nên bất ngờ, bị động; tinh thần “hướng động” được chuyển đổi sang bản sắc “hướng tĩnh” như một phản ứng tự vệ. Khi truyền thống được kết tinh thành bản sắc, tức là “ưu điểm tính” có thể đưa ra như một giá trị, một đảm bảo thì vấn đề ứng xử chủ yếu được đẩy về phía tính hiện đại: đối thoại quốc tế được xem trọng, dẫu trên tinh thần chính trị vị bản sắc.
Kết quả, đà trượt và sự áp chế của diễn ngôn phương Tây cùng với sự trở lại “hòa bình” của thế lực phương Tây trong bối cảnh mới thực sự đã tác động mạnh mẽ đến việc diễn giải văn học nghệ thuật. Thêm nữa, cũng không thể phủ nhận sự tác động của những thay đổi về mặt sách lược chính trị, từ ý hướng đối đầu trong chiến tranh Lạnh sang chống diễn biến hòa bình trong tình thế toàn cầu hóa. Văn học chịu sự áp chế mạnh mẽ của cả hai tri thức quyền lực này, nhất là khi thông tin toàn cầu qua internet được phổ biến. Trong không khí ấy, diễn giải về Đi tìm nhân vật, cho dù người ta không cố chủ trương tính chất ám thị chính trị, thì sự khác biệt trong cảm nhận hư vô về sự sống theo truyền thống Âu Tây cũng đã đủ tạo nên một vênh lệnh trong tâm lý tiếp nhận: sự “lạ hóa” dịch sang chiều “xa lạ”. Theo đó, cách mà người ta diễn giải Đi tìm nhân vật, ở cả ý hướng chính trị và ý hướng đạo đức hay văn hóa, cho ta thấy biểu hiện được tạo bởi sự quy chiếu của một diễn ngôn như thế: tính chất bài ngoại như là một mặc cảm trước phương Tây đồng thời với tính chất dân tộc chủ nghĩa như là sự tham gia của trí thức bằng nỗ lực giải minh tri thức/quyền lực. Và điều này, về sau sẽ được nuôi dưỡng bởi những nghệ sĩ lựa chọn chủ thuyết hành động nghệ thuật như một quan điểm để sáng tạo tính can thiệp của văn học nghệ thuật vào cuộc đời.
Có thể nói, hiện nay, sự can thiệp của văn học nghệ thuật như là biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc là một vấn đề mà hầu như nhà nước nào cũng phải đối mặt, đặc biệt là ở các nước hậu thuộc địa đang vươn lên phát triển hay cạnh tranh làm siêu cường quốc tế. Lý do cho sự bùng nổ cả một trào lưu có tính toàn cầu này có thể tìm kiếm trong chính sự phát triển của xã hội đương đại. Chủ nghĩa hậu hiện đại ở các nước bước vào nền văn minh hậu công nghiệp trở thành bệ đỡ cho quyền đa dạng của những tiếng nói và thái độ con người, ở niềm tin vào sự tan rã tất yếu của sự nhất thể hóa (homogenization) trong xã hội và hợp thức hóa (legitimation) trong khoa học. Cùng với nó, chủ nghĩa hậu thực dân với các biểu hiện phong phú ở các vùng địa-văn hóa-chính trị khác nhau, trở thành bệ đỡ cho quyền được cất tiếng nói của những cái khác (others) trong con mắt phương Tây, hay rộng ra, tiếng nói của cái ngoài lề trong con mắt của trung tâm quyền lực. Cuối cùng, cũng là yếu tố bao trùm cả hai chủ thuyết ở trên, là sự phát giác ra tri thức/ quyền lực của Michel Foucault: [người nắm] sức mạnh là [người có] tri thức và ngược lại là mệnh đề không chỉ hợp lý trong đời sống xã hội mà còn là căn nguyên triết học của thiết chế quyền lực. Do đó, nghiên cứu văn học Việt Nam đương đại, để nói theo Lyotard, phải được đặt trong tâm thức (espirit) này, và việc diễn giải nó cũng phải được đặt trong tình thế (condition) này. Nghĩa là phải đặt vấn đề tìm hiểu chủ nghĩa hậu thực dân và các vấn đề hữu quan ở Việt Nam hiện nay, như cái cách mà những biểu thuật của nó đã trình ra.
Đ.A.D
(SH295/09-13)
ĐỖ LAI THÚYHòn đất cũng biết nói năng(Nhại ca dao)
HOÀNG CẦMĐang những ngày hè oi ả, mệt lử người thì anh ấy mời tôi viết Bạt cho tập thơ sắp muốn in ra. Ai đời viết bạt cho tác phẩm người khác lại phải dành trang giấy đầu tiên để viết về mình? Người ta sẽ bảo ông này kiêu kỳ hay hợm hĩnh chăng? Nhưng cái anh thi sỹ tác giả tập thơ thì lại bảo: Xin ông cứ viết cho, dẫu là bạt tử, bạt mạng, thậm chí có làm bạt vía ai cũng được - Chết, chết! Tôi có thể viết bạt mạng chứ sức mấy mà làm bạt vía ai được.
ĐẶNG ANH ĐÀOTrong tác phẩm nghệ thuật, phân biệt thật rạch ròi cái gì là ý thức, sáng suốt, tự giác với cái gì vô ý thức, tự phát, cảm tính không phải là điều đơn giản. Ngay cả những nhà văn lãng mạn như Huygô, nhiều lúc sử dụng nhân vật chính diện như những cái loa phát biểu lý tưởng của mình, thế mà đã có lúc Kessler bịt miệng lại không cho tán tụng nhân vật Côdet và mắng rằng: Huygô anh chả hiểu gì về tác phẩm ấy hết", đồng thời tuyên bố rằng ông còn thích Epônin gấp bội lần "Côdet, cô nàng điệu đàng đã tư sản hóa ấy".
ĐỖ ĐỨC HIỂU…Với tôi, Balzac là Tiểu thuyết, và Tiểu thuyết là Balzac, - tiểu thuyết Balzac là "tiểu thuyết tuyệt đối", tức là nó biểu hiện tất cả sức mạnh sáng tạo của ông, tất cả cái "lực" của ý thức và tâm linh, của khoa học và tôn giáo, từ cấu trúc truyện và thời - không gian (chronotope), đến cấu trúc nhân vật, tất cả phối âm, tương ứng với nhau thành một dàn nhạc hoàn chỉnh…
HỮU ĐẠTKhông phải ngẫu nhiên, Trần Đăng Khoa lại kết thúc bài viết về Phù Thăng một câu văn rất là trăn trở: "Bất giác... Tôi nắm chặt bàn tay gầy guộc của Phù Thăng, lòng mơ hồ rờn rợn. Chỉ sợ ở một xó xỉnh nào đó, sau lùm cây tối sầm kia, lại bất ngờ cất lên một tiếng gà gáy..." Ta thấy, sau cái vẻ tếu táo bên ngoài kia lắng xuống một cái gì. Đó là điểm gợi lên ở suy nghĩ người đọc.
HÀ QUANG MINHTôi không muốn chỉ bàn tới cuốn sách của ông Khoa mà thôi. Tôi chỉ coi đó là một cái cớ để bàn luận về nền văn học nước nhà hiện nay. Là một người yêu văn học, nhiều khi tôi muốn quên đi nhưng vô tình vấn đề nẩy sinh TỪ "CHÂN DUNG VÀ ĐỐI THOẠI" đã trở thành giọt nước cuối cùng làm tràn ly và lôi tuột cái nỗi đau mà tôi muốn phớt lờ ấy. Phải, tôi thấy đau lắm chứ. Bởi lẽ ai có ngờ mảnh đất trong sáng mang tên văn học sao giờ đây lại ô nhiễm đến thế.
HOÀNG NGỌC HIẾN(góp phần định nghĩa minh triết) (tiếp Sông Hương số 248)
Việc giải quyết thành công mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính hiện đại đã hình thành ra các trường phái âm nhạc như: âm nhạc Nga, Pháp, Mỹ, Trung Hoa . . .
Phê bình thi pháp học đã mang đến sức sống mới cho phê bình văn học Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu cho rằng thi pháp học là phương pháp minh chứng cho thành quả thay đổi hệ hình nghiên cứu trong phê bình văn học.
Hiện nay trên thế giới, quan niệm về Nghệ thuật tạo hình, Nghệ thuật thị giác và Mỹ thuật mang ý nghĩa gần giống nhau. Nó bao gồm: hội họa, đồ họa, kiến trúc, điêu khắc, trang trí ứng dụng, video clip, sắp đặt v.v..Loại hình nghệ thuật này luôn xuất hiện bằng những hình ảnh (image) thu hút mắt nhìn và ngày càng mở rộng quan niệm, phương thức biểu hiện cũng như khai thác chất liệu. Tuy nhiên, để hiểu thế nào là nghệ thuật trong tranh, hoặc vẻ đẹp của một công trình nghệ thuật còn là câu hỏi đặt ra với nhiều người.
HÀ VĂN LƯỠNGPuskin không chỉ là nhà thơ Nga vĩ đại, nhà viết kịch có tiếng mà còn là nhà cải cách văn học lớn. Là người “khởi đầu của mọi khởi đầu” (M. Gorki) Puskin bước vào lĩnh vực văn xuôi với tư cách là một người cách tân trong văn học Nga những năm đầu thế kỷ. Những tác phẩm văn xuôi của ông đã đặt cơ sở vững chắc cho văn xuôi hiện thực và sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga, góp phần khẳng định những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc.
ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây trên tuần báo Văn Nghệ đã có bài viết bàn về vấn đề đào tạo "Văn hóa học", nhân dịp Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra nghị quyết V về xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
PHAN TUẤN ANH “Cuộc nói chuyện của chúng ta đã cho tôi thấy rằng hết thảy những gì liên quan đến bản chất của ngôn ngữ mới ít được nghĩ đến làm sao” (Martin Heidegger)
TRẦN ĐÌNH SỬVăn học sáng tác là nhằm để cho người đọc tiếp nhận. Nhưng thực tế là người đọc tiếp nhận rất khác nhau. Lý luận tiếp nhận truyền thống giải thích là do người đọc không sành.
NGUYỄN THANH HÙNGVăn học là cuộc sống. Quan niệm như vậy là chẳng cần phải nói gì thêm cho sâu sắc để rồi cứ sống, cứ viết, cứ đọc và xa dần mãi bản thân văn học.
LTS: Cuộc tranh luận giữa hai luồng ý kiến về nhân vật lịch sử Nguyễn Hiển Dĩnh, một mệnh quan triều đình Huế có công hay có tội vẫn chưa thuyết phục được nhau.Vấn đề này, Tòa soạn chúng tôi cũng chỉ biết... nhờ ông Khổng Tử "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả" (biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, ấy là biết). Vậy nên bài viết sau đây của nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, chúng tôi xin đăng nguyên văn, tác giả phải gánh trọn trách nhiệm về độ chính xác, về tính khoa học của văn bản.Mong các nhà nghiên cứu, cùng bạn đọc quan tâm tham gia trao đổi tiếp.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.
Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.
ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH Phóng sự điều tra