Những mộng tưởng 'Thoạt kỳ thủy'

10:11 19/12/2011
NGUYỄN QUANG HUY Hình thù của văn học không thể đến từ cuộc sống; nó chỉ đến từ truyền thống văn học; và vì thế cơ bản là đến từ thần thoại.                                                  N. Frye

Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy[1] tự nó xui khiến nhiều cách đọc khác nhau. Trên nền hiện thực văn bản họa hoằn những chỉ dẫn vào cách hiểu ấy (một kiểu “giải phóng cú pháp” - G. Bachelard), chúng tôi bạo gan đi tìm những chứng lý cơ bản. Sơ khởi là viễn tượng của trăng, máu, con cú trong liên hệ với con người (Tính, dân ở bãi Nghiền Sàng) thể hiện một cách huyễn hoặc và mê đắm.

1. Tính và Trăng

Tính “vừa ra đời”, “đã thấy trăng[2]. Trăng làm Tính lạnh. Thứ bản nguyên âm tính của Tính cần đến một sự sưởi ấm. Vì sự choán chiếm sức sống của trăng, trăng đen, của bố nên Tính cần một sự cộng thông nghịch đảo. Lạnh luôn cần một hấp lực khác, cần một sự phóng chiếu khác. Khi hơi ấm trong bản thể không đủ, nó dẫn tới một khát tìm bản nguyên đối cực; khi gia đình (hơi ấm) không đủ sức nóng của máu (tổ ấm) và tình yêu (bất lực vì thiếu lực sống và sợ Hiền), Tính hướng đến giết công cống, giết kiến, đập nát đá, mong muốn được thọc dao vào cổ người khác. Khi công cống không còn nữa, sự mơ mộng của Tính hướng đến lửa (đám cháy nhà ông Điện), hướng đến máu (màu đỏ, sức sống, hơi ấm) bằng cách chọc tiết (lợn), rồi hướng đến người điên ngoài bãi Nghiền Sàng, ông Phùng.

Trăng trong Thoạt kỳ thủy là bản mệnh chết của Tính: “vừa ra đời, Tính đã thấy trăng[3] để rồi ám ảnh mãi. “Đêm. Tính không ngủ được vì trăng. Trăng làm Tính lạnh, càng bịt tai, co người, càng đau đớn, khổ sở. Trăng rơi u u, miên man, rên xiết[4]. Trạng  thái “lạnh” xuất hiện 17 lần, rét: 2 lần. Trong không khí huyền hoặc, luôn luôn xuất hiện ánh trăng, tiếng chó trucon cú, chó mở mắt như cú mèo. Trăng xuất hiện 53 lần, “trăng đen”: 11 lần, trăng vàng: 1 lần, với màu vàng: 32 lần trở nên một ma mị. Trăng trong tâm thức cộng đồng Việt là bản nguyên âm (chị Hằng Nga), trăng được ví với mẹ. Chó hằn thù với trăng, tru lên não nuột mỗi khi trăng xuất hiện. Ở đây có một sự lây nhiễm đến tức thời: khi trăng lên thì tiếng tru của chó cất lên và Tính (thấy khó chịu) lấy đá ném trăng. Sự hằn thù của chó và trăng còn ở chỗ, trong tâm thức huyền thoại, mặt trăng đã lén lấy một cái chày (biểu tượng của Linga) để giữ cho mình được trẻ mãi. Vì rằng “cái chày đá giã các thứ gia vị, trong suốt một đời người đàn bà dần dà thấm sâu các mùi thơm đến mức nó có thể đánh thức người chết dậy, làm cho người già trẻ lại, làm cho người chết thành bất tử[5]. Nhưng cuối cùng con chó đã bắt trăng nhả cái chày ra, và mỗi tháng nó phải chết một lần. Chó đã biến thành chó dữ mỗi khi thấy trăng, và trong ám ảnh của Tính là sự thống ngự của địa ngục - cái địa ngục nội tại của mỗi con người. Trong huyền thoại hay triết học phái Tân Platon xem đó là ác quỷ nội tâm. Nó chỉ có thể được giải thoát bằng hành vi tinh thần. Tiếng đàn của ông Phùng; ảnh Chúa Jesu ở nhà ông Khoa... là những hiện thân của hành vi tinh thần - nhưng điều đó đã không xâm nhập được. Và sức mạnh bản năng của Tính, Hưng... quá cằn cỗi để thẩm thấu thứ tinh thần cao thượng ấy.

Trăng hiện diện trong tâm thức đa thần giáo là bản nguyên âm của vũ trụ và của con người. Có lúc nó là em hay vợ của mặt trời nhưng số phận của nó, trong tín ngưỡng bái vật lại gắn liền với người phụ nữ - người phụ nữ sinh đẻ - Mẹ. Tuy vậy, trăng trong Thoạt kỳ thủy là một phản - tái sinh, một dự phóng của thiếu sinh khí và cằn cỗi. Trong phần này, chúng tôi xin tập trung ở sự tái lặp biểu tượng gốc trăng đen. Trước hết, trăng đen là sự song hành ý nghĩa với nàng Lilith. Trong thần thoại Hi Lạp, Lilith là hiện thân cho sự không thể hòa nhập với cuộc sống gia đình, là nơi hứa hẹn của sự tái sinh những xung năng tăm tối, những con vật ma quái hút máu. Trong Kinh Thánh, Lilith là người vợ đầu tiên của Adam nhưng vì có bộ phận sinh dục nằm trong óc, là sự bất khả xâm phạm, sự tỉnh táo trơ trẽn. Trăng đen trong liên hệ với Lilith là “hiện thân của nỗi cô đơn đến chóng mặt, của cái Riêng không tuyệt đối[6]. Trong tương quan với bóng tối và địa ngục, con người bị ám ảnh và nhiễm phải trăng đen sẽ muốn từ bỏ thế giới này, dẫu phải trả giá bằng tự hủy diệt hay hủy diệt người khác. Nó là sự nuốt chửng khủng khiếp.

Trăng đen trong Thoạt kỳ thủy xuất hiện ở các trang 51 (3 lần), 53 (1 lần), 89 (2 lần), 90 (2 lần), 142 (1 lần), 143 (1 lần), 146 (1 lần). Sự xuất hiện của nó cùng với con cú là những ám ảnh mãnh liệt của Tính về “chọc tiết” (hướng đến cái chết của người khác), về đốt cháy, về cắn cổ, và tao chọc tiết hết. Vì sự choán chiếm sức sống của trăng, trăng đen, nên Tính cần một sự sưởi ấm. Tính ngay từ cuộc sống của bào thai (của sống thuở thiên đường) đã lãnh nhận cú đạp của cha. Octavio Paz xem việc cắt đứt khỏi cuộc sống bào thai của mỗi cá thể con người như việc từ bỏ thiên đường của nó, như một quy luật tất yếu để từ đó nuôi dưỡng bản thể cô đơn trong sự ngưỡng vọng về cái thời nguyên thủy của mình ấy. Thứ bản nguyên âm tính của Tính cần đến một sự sưởi ấm. Nhưng mái ấm không đủ sức nóng của máu và tình yêu (bất lực vì thiếu lực sống và sợ Hiền), Tính hướng đến giết công cống. Khi công cống không còn nữa, sự mơ mộng của Tính hướng đến lửa (đám cháy nhà ông Điện), hướng đến máu (màu đỏ, sức sống, hơi ấm) bằng cách chọc tiết (lợn) rồi hướng đến ông Phùng, những người điên và cuối cùng khi bị trăng đen choán chiếm, Tính trở về với viễn tượng chết. Sự mơ mộng chính nguồn sống của mình đã chấm dứt cái lạnhrét: “Máu từ cổ Tính trào ra, ấm, nóng. Tính buông dao, ngón trỏ vuốt vuốt dòng máu đang tràn theo hàng khuy áo. Tính cười khoái trá, khuỵu đầu gối, mặt gục lên chiếc vại đựng nước[7]. Chỉ có hơi ấm của mình mới có thể làm cho mình tái sinh trọn vẹn. Và khi đó, “nước” (người mẹ) trở lại thuần khiết bao bọc Tính. Con cú bay lên “chẳng cần biết tới phương trời nào[8]. Sẽ không ai dám mang niềm hi vọng dù là rất ít ỏi của mình để nghĩ được rằng, có một nơi khi con cú bay mỏi sẽ dừng lại, nghỉ ngơi và hòa điệu cùng một Tính khác trong điệp khúc bất tận: điệp khúc mang những lời ca man dại, bi thiết.

2. Con cú

Con (trong Thoạt kỳ thủy) là con vật hoạt động ban đêm, có quan hệ với mặt trăng, cú không chịu đựng được ánh sáng mặt trời. “Khi cú kêu, người da đỏ chết” (Maya - Quiché). Người Aztèque coi cú là con vật tượng trưng cho thần âm phủ. “Hồn cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề” (tục ngữ Việt). Tâm thức Việt nghe thấy tiếng cú kêu, hay bắt gặp nó là một dự báo cho điềm không lành, bằng sự liên lạc giữa lạnh - bóng tối - chết chóc - con cú là kẻ dẫn hồn con người về cõi chết. Con cú là hiện thân của sự chết, hiện thân của sức mạnh ma quái, là sức mạnh vô thức, điều khiển nước. Theo Chevalier, trong các hiện vật khai quật ở Pêru, hình con dao tế lễ luôn khắc loài chim đêm - cú. Bằng một cách riêng, một tay cầm con dao, một tay cầm bình đựng máu, con cú là nỗi ám ảnh hiến sinh. Trong bức tranh khắc của Goya (Paris, Thư viện Quốc gia), chiêm mộng hiện hữu giữa font màu xám và đen. Con người trong tư thế ngủ, hiện diện trong giấc mơ là con cú và con chó. Có phải vì thế chăng mà Nguyễn Bình Phương, trong  sự đồng vọng mộng mị đã sáng tạo ra Thoạt kỳ thủy, hay nói đúng hơn anh đã lấy từ “kho trời chung” về làm của riêng cho mình.          

Hơn cả biểu tượng rùng rợn về chết chóc, con cú trong Thoạt kỳ thủy đã thực sự tham dự với ý nghĩa như một năng lực huyền dụ. Nó xuất hiện một cách đầy thách thức: 44 lần, từ lúc không rõ nguyên nhân rụng xuống giữa dòng nước (ở trang 9) đến “bắt đầu có cảm giác” (ở trang 49) và “quặp chặt lấy nước”, bay đi với “nhịp cánh vỗ mạnh mẽ, sảng khoái” (ở trang 161). Mỗi cử động của nó đều dẫn đến những tai họa giáng xuống Linh Sơn. Đặc biệt là Tính. Từ lúc con cú “bắt đầu có cảm giác”, Tính cũng thể hiện bộ mặt “lạnh tanh”, “càng ngày càng ghê” (ở trang 105) với những cú “chọc tiết” (lặp lại 36 lần) và máu chảy (46 lần lặp lại) trở thành miền mộng tưởng ưa thích. Mang một sở hữu bất bình thường (điên), được cổ vũ bởi bóng tối (lặp lại 13 lần), đêm (29 lần), màu đen (13 lần), xám (10 lần), Tính trở thành đồng lõa của thần bóng đêm và chết chóc (cú). Sự bình yên ở Linh Sơn đâu chỉ có những tăm tối nhận thức và người điên đe dọa, nguy hiểm hơn, vô hình hơn chính là vô thức điên loạn đã biến thành hành động.

Con cú và Tính đã trở thành song trùng cùng nhau. Đó là “một biến cố tai hại, đôi khi là dấu hiệu của cái chết”. Kiểu song trùng này có khi được biểu hiện trong cặp đôi người - vật. Trong Thoạt kỳ thủy, hình ảnh con cú chính là “đối thủ khiêu chiến” của con người, bởi cũng từ khi con cú xuất hiện với những cử động của nó là những sự bắt đầu cho diễn biến tội lỗi, những xung lực nguyên thủy tối tăm trong con người hoành hành, đặc biệt là Tính. Ở đây, có một sự đối lập rõ rệt về tính cách và hành động của những con người trong truyện trước và sau khi gặp con cú. Không nghi ngờ gì nữa, việc con cú xuất hiện trong trạng thái không bình thường (bị thương, nằm bất động) là một ẩn ý và là biểu hiện rõ rệt tính chất song trùng của Nguyễn Bình Phương qua việc thể hiện motif này trong câu chuyện của mình, trở thành một ẩn dụ có ý nghĩa biểu tượng cho phần thú tính, cho xung lực nguyên thủy (primitive impulse) tồn tại sâu thẳm trong bản ngã con người. Kiểu song trùng này còn diễn ra trên bình diện giữa con vật và vật. Trăng đencon cú, con chótrăng trong Thoạt kỳ thủy là kiểu như vậy. Sự lấp lửng lưỡng nan đó thực sự là cuộc chơi của những kẻ “nhúng chàm” vô thức. Con đường tìm dấu vết ý nghĩa của ký hiệu trở nên nan giải để khẳng định một điều gì đó cho tương hợp. Nó tạo ra một cuộc chơi của sự liên tưởng làm hé lộ những bất ngờ đến thú vị kỳ lạ. Điều này có thể viện dẫn sự liên hệ trong Thoạt kỳ thủy. Chúng ta thấy, cùng hòa điệu với trăng đen, Tính luôn được kích thích bởi tiếng gặm chén lách tách của bố. Sự gặm đít chén (chén trống không, cạn nước (rượu)) - cạn - sức nóng - hơi ấm chính là cạn ân phúc (chén đầy - tràn trề ân phúc). Sự thèm rượu thường xuyên, được nhìn nhận như một khao khát nguồn sống, khao khát ân phúc, sự cứu độ (Phước vồ lấy chai rượu...). Nguyễn Bình Phương tạo ra một dấu mốc mới, bằng cách viết ngắn, cô lại, anh đã mang đến cho văn chương nhiều ngạc nhiên bằng thứ tiểu thuyết của hiện thực tượng trưng. Điều ngạc nhiên lớn nhất của chúng tôi có lẽ là ở chỗ này. Tiếng gặm chén “tanh tách” của bố Tính cứ khuấy động, khơi lên những kích thích rất khó chịu mỗi khi có trăng, tiếng chó sủa và cú, khiến chúng ta liên tưởng đến cái chén của Jamshad (ông vua huyền thoại Iran). Trong các nghi thức của lễ thụ pháp, cái chén này lại tượng trưng cho trái tim của người được thụ pháp. Chén cúng dâng Soma - được đồng hóa với trăng lưỡi liềm, mà cuộc sống của nó được so sánh với màu sữa hoặc máu. Độc đáo hơn là hình ảnh dâng rượu (rượu chính là thứ nước của lửa - Bachelard, sự thèm rượu của ông Phước là thứ khao khát hơi ấm, vì rượu trong liên hệ với lửa là sức nóng; cũng chính vì vậy mà làm tăng thêm một nghịch đảo bản nguyên âm cho Tính - đứa con; sự choán chiếm sinh khí sống của Tính đâu chỉ có trăng mà còn là ở người bố của mình) của Hiền cho bố Tính và ông Điện, một sáng kiến của ông Phước (theo đánh giá của ông Điện) không thể không khơi gợi người đọc liên tưởng đến một tổ hợp hình ảnh biểu trưng: chén - rượu - trái tim - trinh nữ - sự lên ngôi của một vương quyền mới. Điều này bắt nguồn từ một huyền thoại của người Celtes, một sự tích hay một huyền tích nổi tiếng về thành đô của người anh hùng, ở đó, một người con gái có sắc đẹp kỳ diệu đã dâng chén rượu cho Conn (vua Ailen) dưới sự chứng dám của thần Lug. Vì thần này tiên báo cho ông rằng nòi giống của ông sẽ trị vì đất nước này trong rất nhiều thế hệ.

Trong Thoạt kỳ thủy, hiện hữu một tương quan vênh lệch giữa một ngưng đọng thời - điểm và biến dịch thời điểm sử tính. Thời - điểm tập trung vào những biến ảo của con cú: “mười một giờ mười lăm” (ở trang 9); “mười một giờ mười bảy” (ở trang 49); “mười một giờ hai mươi” (ở trang 88); “mười hai giờ kém mười chín” (ở trang 113) và “mười hai giờ” (ở trang 160). Nhưng thời điểm sử tính không thế, Tính sinh ra và lớn lên, lấy Hiền rồi chết là một quãng khá dài. Nếu chúng ta tách ra các thời - điểm của con cú thì nó chỉ hiện diện chỉ có 45 phút (từ mười một giờ mười lăm đến mười hai giờ). Điều ám ảnh là ở chỗ, nó tham dự một cách không dè dặt vào cuộc sống của Linh Sơn, của Tính. Sự không cân xứng và vênh lệch trên bị đẩy vào tâm thức để hóa sinh những ám ảnh ma mị. Hơn cả thứ “trong mơ còn thức”, sự can thiệp của nỗi sợ hãi, của Vô thức tập thể về những bí ẩn cuộc sống, bí ẩn của vũ trụ đã hẹn gặp trong sâu thẳm nội giới người. Đó là sự hội ngộ chân thực nhất của những “kẻ di trú vĩnh cửu” với thế giới tâm hồn lắm đa đoan của con người. Và ở đây yếu tố vô thức đã được triệt để khai thác nhằm thể hiện quá trình tiệm thoái của cuộc sống.

N.Q.H
(SH274/12-11)









[1] - Nguyễn Bình Phương (2005), Thoạt kỳ thủy, Nxb Văn học, Hà Nội.

 

[2] - Như trên, tr 14, 15.

 

[3] - Như trên, tr 14.

 

[4] - Như trên, tr 26.

 

[5] - Jean Chevalier (và Alain Gheerbrant) (Nhóm tác giả dịch), (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr 153.

 

[6] - Jean Chevalier (và Alain Gheerbrant) (Nhóm tác giả dịch), (2002), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr 941.

 

[7] - Nguyễn Bình Phương (2005), Thoạt kỳ thủy, Nxb Văn học, Hà Nội, tr 159.

 

[8] - Như trên, tr 161.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H

  • MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.