Những giấc mơ văn học

17:09 02/04/2015

HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

Khi mới học cấp 2, tôi đã thấy trong tủ sách nhà tôi có hai cuốn Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan và Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân do một người dượng mua về từ Sài Gòn.

GS TS Huỳnh Như Phương - Ảnh: internet

Cuốn đầu do Nxb. Thăng Long tái bản năm 1960, được đóng bìa dày thành một bộ sách 5 tập. Cuốn sau là bản in lại của Nxb. Hoa Tiên năm 1968. Những hiểu biết ban đầu của tôi về văn học hiện đại là từ hai cuốn sách đó. Nhưng hồi đó tôi chưa đọc hai cuốn sách một cách hệ thống - đọc một mạch, “trọn gói” từ đầu đến cuối. Tôi chỉ đọc từng chương, từng bài, đọc nhảy cóc; ở trường thầy giáo nhắc đến nhà văn, nhà thơ nào thì về nhà lật tìm chương viết về người đó, như đọc một từ điển về các nhà văn. Một lần, nhân có người nói Quảng Ngãi quê tôi sinh ra nhiều tướng lĩnh hơn là văn nhân, tôi mới lục tìm trong hai cuốn sách đó, thì thấy rằng trong 79 tác giả được Vũ Ngọc Phan nhắc đến và 46 thi nhân được Hoài Thanh và Hoài Chân vinh danh, chỉ vỏn vẹn ba người quê Quảng Ngãi: Tế Hanh, Bích Khê và Nguyễn Vỹ.

Về sau này, tôi đọc trong một bài viết, Tế Hanh kể rằng Quảng Ngãi có ba dòng sông bắt đầu bằng chữ “Trà”, tính từ Nam ra Bắc: Trà Câu, Trà Khúc, Trà Bồng. Sông Trà Câu nằm trên địa phận huyện Đức Phổ, chảy qua làng Tân Phong của nhà thơ Nguyễn Vỹ rồi xuống cửa biển Mỹ Á. Sông Trà Khúc chảy ngang thành phố tỉnh lỵ, ở giữa hai huyện Sơn Tịnh và Tư Nghĩa, đổ ra cửa Cổ Lũy, gần thị trấn Thu Xà của nhà thơ Bích Khê. Còn sông Trà Bồng chảy đến huyện Bình Sơn thì tách dòng làm đôi ôm lấy làng Đông Yên của Tế Hanh như ôm một hòn đảo nhỏ trước khi xuôi về cửa Sa Cần.

Ba nhà thơ cùng sinh ra từ một “vẻ buồn tỉnh lỵ”, lớn lên bên những dòng sông khác nhau, bị ném vào trong bão táp của lịch sử, đã chịu những số phận khác nhau. Bích Khê mang nội lực cách tân trong một cơ thể ốm yếu và những chuyến tàu hóng gió trên sông Trà Khúc không cứu nổi nhà thơ ra khỏi căn bệnh lao phổi, chỉ kịp nhìn lá cờ đỏ phất phới ngoài đường một ngày khởi nghĩa. Tế Hanh chân thành, bình dị, lại nhờ cái nền chất liệu hiện thực mà đi xa cùng với cách mạng, tuy cuối đời sống trong cảnh mù lòa. Nguyễn Vỹ oái oăm hơn, cao ngạo từ thời làm thơ Gửi Trương Tửu, khiến Hoài Thanh và Vũ Ngọc Phan khen chê đủ điều, rồi bị chà xát trong làng văn, làng báo Sài Gòn, để nay còn được những bài thơ tìm tòi về hình thức và một bộ tiểu thuyết sử thi tuy giá trị nghệ thuật không cao nhưng vẫn là chứng từ cho số phận con người trong những biến động lịch sử: Tuấn, chàng trai nước Việt.

Tuổi thơ tôi đã gặp gỡ ba khuôn mặt văn nhân đó trong giấc mơ văn chương thời thơ ấu: đất quê mình khô cằn, người quê mình chân chất, liệu có sản sinh ra được những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng hay không. Ngoài ba tác giả kể trên, tôi lục tìm trong sách báo, thấy có năm ba tao nhân mặc khách gốc Quảng Ngãi, nhưng người đã mất, kẻ lưu lạc nơi xứ khác mới thành sự nghiệp. Rồi tôi tự hỏi vậy ai sẽ tả lại thành thơ mười cảnh đẹp quê mình và ai sẽ kể lại những nỗi đau khổ gần như bất tận của người dân nơi đây.

Địa chí văn hóa tỉnh Quảng Ngãi bây giờ dành chỗ trang trọng cho những văn nhân ấy và mặc dù họ là nhà văn Việt Nam, họ vẫn mang chất giọng miền Trung một thời không quay lại. Sinh ra bên những dòng sông miền Trung, họ đã mang giấc mơ xứ sở trong tiếng nói nghệ thuật và đem giấc mơ đó đến mọi miền đất nước.

Trong thời đại toàn cầu hóa, người ta đang nói đến hội nhập văn hóa, đến văn học thế giới; vậy mà nay nói chuyện văn học địa phương thì xem chừng như hơi bị lạc hậu, cổ lỗ chăng? Thế nhưng nghĩ kỹ thì thấy có những giá trị văn học toàn nhân loại lại xuất phát từ cái nôi của một vùng đất, một quê hương bé nhỏ. Trăm năm cô đơn của Gabriel Garcia Marquez tái hiện làng Macondo hẻo lánh như một sản phẩm hư cấu nghệ thuật được xây dựng từ chất liệu làng quê Atacarata của tác giả. Tuổi thơ của Pablo Neruda gắn liền với những cánh đồng và những khu rừng ở Temulco, miền cực nam Chi- lê và ông nói: “Temulco là cái phong cảnh của tôi, là nét chính yếu của thơ tôi”. Còn Quê hương tan rã của Chinua Achebe thì được khơi nguồn cảm hứng từ làng Ogidi ở vùng hạ lưu sông Niger, nơi bộ lạc Ibo sinh sống, cũng là nơi nhà văn chào đời.

Nước Việt Nam của chúng ta là một dải đất hẹp kéo dài từ “từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau”, từ Trà Cổ rừng dương đến Cà Mau rừng đước (Tố Hữu). Tình cảm thống nhất đất nước không bao giờ phai nhạt, trong trái tim người đi trên con đường thiên lý vẫn mang theo tâm tình từ miền Bắc: “Tôi theo người vượt quan san, vẽ lối mòn gìn giữ quê hương ngăn đường giặc Hán”, như Phạm Duy viết trong trường ca Con đường cái quan.

Nhưng tính thống nhất đó không xóa nhòa hay bào mòn tính đa dạng của văn hóa vùng miền. Trong văn học, tác phẩm của Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Đoàn Giỏi… ở miền Nam khác với tác phẩm của Võ Hồng, Quách Tấn, Nguyễn Văn Xuân… ở miền Trung; với tác phẩm của Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Bùi Ngọc Tấn… ở miền Bắc không chỉ về nội dung thể hiện mà cả về phong cách kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu. Họ làm nên một tài sản tinh thần vô giá của nhân dân. Nhân dân tự hào về giới trí thức sáng tạo của mình, những người cũng biết chăm vườn tưới cây, cũng ăn bắp ngô và khoai lang, nhưng biết cách nói lên nỗi đau và niềm thao thức của đồng bào chung quanh đang sống trong tình cảnh vất vả và lắm khi bất hạnh. Để được vậy, những tài năng đó cần có những khoảng không gian rộng lớn cho sáng tạo, cần được thấu hiểu và lắng nghe trong cái môi trường văn hóa nhiều khi chật hẹp của họ. Mặt khác, bản thân họ cũng phải tự mình vượt qua những rào cản về tâm lý, nhất là tâm lý tỉnh lẻ, để từ chỗ đứng của mình mà suy tưởng và tái hiện về những vần đề lớn lao của đất nước và con người. Để mượn cách nói của Miguel Torga, nhà văn Bồ Đào Nha, văn học thế giới chính là văn học địa phương không có những bức tường.

Đọc Chiếc cầu trên sông Drina của Ivo Andritch qua bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, tôi khâm phục tài năng của nhà văn, qua câu chuyện và số phận của một cây cầu, đã tái hiện bao nhiêu chuyện về nhân tình thế thái và số phận con người ở đất nước Nam Tư những năm tháng đã xa. Tôi từng mơ ước có một Ivo Andritch của Việt Nam. Đất nước ta từ Bắc vô Nam cũng có vô số những cây cầu bắc qua những dòng sông, kênh rạch, mà cây cầu nổi tiếng nhất có tên là Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải. Nơi đó đã trở thành vết cắt, vết thương của dân tộc. Nhiều nhà văn, nhà thơ đã đưa cầu Hiền Lương và sông Bến Hải vào tác phẩm, như hình ảnh của một chiến tuyến. Nguyễn Tuân viết rất hay về “sông tuyến”, nhưng nhà văn vẫn không đứng cao hơn môi trường chính trị của ông, chỉ thấy khát vọng của dân tộc mà chưa nhìn thấu những vết thương sâu hoáy trong lòng người kinh qua một cuộc chiến tranh khủng khiếp. Chiến tranh đã tạo ra những nhà văn viết dưới hầm, cùng với những độc giả đọc sách dưới hầm. Bao nhiêu tài năng dang dở.

Bây giờ cầu lại bắc qua. Ván thơm gỗ mới cho ta gặp mình (Tố Hữu). Ta đã gặp mình gần 40 năm. Trên bàn thờ của nhiều bà mẹ Việt Nam, tấm ảnh của hai đứa con hai bên chiến tuyến được chưng cạnh nhau trước cùng một bát hương. Các nhà văn Việt Nam đã chìa tay ra với Tim O’Brien, Wayne Karlin, Kevin Bowen… Mong chờ văn học thực sự trở thành nhịp cầu hòa giải và hòa hợp.

Khi nhà văn Mạc Ngôn được giải thưởng Nobel văn học năm 2012, một số người Việt Nam cảm thấy giải thưởng danh giá vốn ở quá xa tầm tay với này như có vẻ gần lại. Đó không phải là vì đánh giá thấp nhà văn ấy hay vì quá tự tin rằng văn học Việt Nam cũng sánh ngang với văn học Trung Quốc. Thật ra, chung quy là vì con đường mà Mạc Ngôn đi đến giải Nobel cũng có nhiều điểm tương đồng với con đường mà một số nhà văn Việt Nam đã trải qua, thậm chí còn không khốc liệt bằng. Chất liệu thực tế mà Mạc Ngôn đưa vào tiểu thuyết không thể nói là dữ dội hơn những gì các nhà văn Việt Nam đã trải nghiệm. Khuynh hướng nghệ thuật hiện thực huyền ảo mà Mạc Ngôn chịu ảnh hưởng rõ rệt cũng không thể nói là mới mẻ và được tiếp thu nhuần nhị.

Dù sao đó là chuyện của những người làm giải. Điều khiến chúng ta suy nghĩ là con đường mà văn học Việt Nam còn phải đi để vươn tới đỉnh cao.

Chúng ta hãy thử tưởng tượng xem, nếu vài ba mươi năm hay nửa thế kỷ sau, một nhà văn Việt Nam đoạt giải thưởng Nobel, người đó sẽ nói gì khi nhận giải? Người đó sẽ nói về vẻ đẹp của tâm hồn dân tộc mình như Y. Kawabata nói về vẻ đẹp của tâm hồn Nhật Bản? Người đó sẽ nói về nỗi cô đơn châu Á như G. G. Marquez nói về nỗi cô đơn châu Mỹ la-tinh? Người đó sẽ nói về nỗi đau khổ của một dân tộc trải qua mấy cuộc chiến tranh, bao nhiêu người đã ngã xuống để có hòa bình mà rồi vẫn không thôi bị kẻ ác rình rập ngoài biên giới và hải đảo? Người đó sẽ nói về những giằng xé của đất nước khi tiếp xúc với một nền văn minh xa lạ và phải chấp nhận những sự trả giá nhiều khi rất đắt trên con đường hiện đại hóa? Hay người đó sẽ nói về tiếng Việt, một ngôn ngữ kỳ diệu, mượn cách ký âm Tây phương mà lưu giữ tinh hoa dân tộc, qua số phận của tiếng Việt mà nhìn thấy số phận đất nước?

Có thể không một dự đoán nào đúng cả. Vì 30, 40, 50 năm nữa, người Việt Nam đứng nói ở Hàn Lâm viện Thụy Điển sẽ mang một tâm tình khác hẳn chúng ta bây giờ. Có thể những điều làm chúng ta băn khoăn, lo âu hiện nay không còn là mối bận tâm của người ấy.

Cũng như chúng ta ngày nay, tâm tình, suy nghĩ hẳn nhiên là không giống với những con người ba, bốn thập niên trước. Biết bao nhiêu nước đã chảy qua cầu. Giả sử như cái máy vi tính được phát minh sớm hơn nửa thế kỷ, thì có thể lịch sử đã khác đi một chút.

Tuy nhiên, mỗi người chúng ta, dù là viết văn hay làm thơ, dạy học hay viết báo, cũng chỉ có một thời để sống. Ta không thể sống cái thời đã qua. Ta cũng khó mà đón trước cái thời sẽ đến để nói với bạn đọc ở giữa thế kỷ 21 những điều chính họ mong đợi.

Trong Thư gửi người thi sĩ trẻ tuổi (Hoàng Thu Uyên - tức Phạm Công Thiện - dịch, Nxb. An Tiêm, 1969), Rainer Maria Rilke khuyên nhà thơ trẻ Kappus đừng đọc sách phê bình và mỹ học, nhưng mười lá thư của ông thực chất là một loại phê bình và mỹ học đặc sắc. Ông viết: “Nếu thế gian đầy rẫy những sự khủng khiếp thì những sự khủng khiếp ấy chính là của chúng ta; nếu thế gian đầy rẫy những hố thẳm thì những hố thẳm này thuộc về chúng ta; nếu có những mối hiểm họa đang dàn trải trước mắt chúng ta thì chúng ta phải cố gắng yêu những hiểm họa ấy”.

Sách Các nhà văn giải Nobel do Đoàn Tử Huyến chủ biên (Nxb. Giáo dục, 2006) nói về Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao như những dấu chỉ và niềm hy vọng của một nền văn học đỉnh cao. Nhưng tất cả họ đều đã chết. Họ đã làm xong nghĩa vụ của ngòi bút. Chúng ta không còn có thể dựa dẫm vào thế giá của họ. Những nhà văn hôm nay đứng trước những hố thẳm khác, những hiểm họa khác, có thứ là sản phẩm của hoàn cảnh, có thứ là sản phẩm của chính mình. “Yêu” hiểm họa là một cách nói. Chúng ta không thể nhắm mắt trước hiểm họa, mà phải đương đầu với nó hay ít nhất tìm cách hóa giải nó bằng con đường của nghệ thuật.

Trong một lần tiếp xúc với bạn đọc thành phố Hồ Chí Minh, nhà văn Robert Olen Butler, tác giả tập truyện ngắn Hương thơm từ miền núi lạ, có nói: “Nhà văn là người sớm nhạy cảm với những bất trắc của xã hội và tìm một cách diễn đạt khả xúc về nỗi bất an, lo lắng, dằn vặt đó. Trước một thế giới tan vỡ hay có nguy cơ tan vỡ, nhà văn nhặt nhạnh những mảnh vỡ để tái tạo lại chính nó, đồng thời kích hoạt những dây đàn cảm xúc của con người. Vì vậy xã hội càng bất an, càng cần đến văn học”.

Văn học từ một làng quê đi ra đất nước, thành tiếng nói nghệ thuật hóa giải đau thương của dân tộc, rồi từ dân tộc đi tìm sự đồng cảm của nhân loại, đó là con đường của một giấc mơ. Thế kỷ 21 đã qua đi hơn một thập niên nhưng con đường của văn học Việt Nam vẫn còn dang dở. Những khuynh hướng nghệ thuật, dù trung tâm hay ngoại biên, đều dang dở. Những tài năng cũng dang dở. Nỗi khao khát một nền văn học đỉnh cao vẫn chưa được thỏa nguyện.

Nhưng chính vì vậy mà nó có sức hấp dẫn. Đó là sức hấp dẫn của những giấc mơ. Dù giấc mơ vẫn còn là giấc mơ.

H.N.P  
(SH313/03-15)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN DƯ…Bốn cột lang, nha cắm để chồng/ Ả thì đánh cái, ả còn ngong/ Tế hậu thổ khom khom cật,/ Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng/ Tám bức quần hồng bay phới phới,/ Hai hàng chân ngọc đứng song song./ Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,/ Cột nhổ đem về để lỗ không.                                 (Cây đánh đu, Hồng Đức quốc âm thi tập)…

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGTôi mới đọc Xuân Quỳnh gần đây: với tôi, thơ chị ở quá xa. Nhưng càng đọc càng gần lại. Vì chị thường nói về thời gian: Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế/ Chỉ em là đã khác với em xưa

  • LƯƠNG ANMiên Thẩm là một nhà thơ hoàng tộc có tiếng giữa thế kỷ 19. Qua thơ văn ông, chúng ta gặp một con người, tuy bị giai cấp xuất thân hạn chế rất nhiều, song vẫn biểu hiện một ý thức thương dân và một tinh thần lo lắng cho vận mệnh đất nước vốn không phải phổ biến trong tầng lớp nhà nho - trí thức phong kiến lúc bấy giờ.

  • PHONG LÊGiá Bác không đi Trung Quốc? Hoặc giá Bác không bị bọn Tưởng bắt giam? Hoặc nữa, đã có tập thơ, nhưng năm tháng, chiến tranh, cùng bao nhiêu sự cố khiến cho tập thơ không còn về được Viện bảo tàng cách mạng?

  • L.T.S: Bài viết của Trần Đình Sử về đóng góp của thơ Tố Hữu trong việc phát triển thể tài thơ chính trị và khuynh hướng sử thi trong biểu hiện không phải không có nhiều chỗ phải bàn cãi. Tuy nhiên tạp chí vẫn coi đây là một cách tiếp cận mới để khám phá nguồn thơ phong phú của một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Xin giới thiệu bài tiểu luận này để bạn đọc cùng suy nghĩ trao đổi.

  • ĐÔNG HÀVăn chương bắt nguồn từ cuộc sống. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng vậy, mỗi trang viết của anh là một sự khởi nguyên rất chân thật. Không thiên về lối miêu tả nhưng bằng cặp mắt tinh tế sắc sảo của mình, Hoàng Phủ đã “nói” về cuộc sống từ những tinh chất của thiên nhiên và con người Huế đọng lại dưới ngòi bút của anh.

  • VÊ-RA CU-TÊ-SƠ-CHI-CÔ-VAVê-ra Cu-tê-sơ-chi-cô-va là tiến sĩ ngữ văn, giáo sư nghiên cứu ở Học viện Gorki về văn học thế giới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.

  • NGUYỄN HOÀN Nhạc Trịnh Công Sơn lâu nay đã “chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà ở cả bên ngoài biên giới nữa” (Văn Cao).

  • PHAN NGỌC1- Trong việc nghiên cứu Truyện Kiều, xu hướng xưa nay là đưa ra những nhận xét căn cứ vào cảm thụ thẩm mỹ của mình. Những nhận xét ấy thường là rất tinh tế, hấp dẫn. Nhưng vì quan điểm khảo sát là chỉ phân tích những cảm nghĩ của mình căn cứ đơn thuần vào Truyện Kiều, không áp dụng những thao tác làm việc của khoa học hiện đại, cho nên không tránh khỏi hai nhược điểm:

  • ĐẶNG TIẾNMèo là thành phần của tạo vật, không hệ thuộc loài người, không phải là sở hữu địa phương. Nói Mèo Huế là chuyện vui ngày Tết. Đất Huế, người Huế, tiếng Huế có bản sắc, biết đâu mèo Huế chẳng thừa hưởng ít nhiều phẩm chất của thổ ngơi và gia chủ?

  • TRIỀU NGUYÊNCó nhiều cách phân loại câu đối, thường gặp là ba cách: dựa vào số tiếng và lối đặt câu, dựa vào mục đích sử dụng, và dựa vào phương thức, đặc điểm nghệ thuật. Dựa vào số tiếng và lối đặt câu, câu đối được chia làm ba loại: câu tiểu đối, câu đối thơ, và câu đối phú. Bài viết ngắn này chỉ trình bày một số câu đối thuộc loại câu tiểu đối.

  • KHÁNH PHƯƠNGNăm 2010 khép lại một thập kỷ văn học mang theo những kỳ vọng hơi bị… “lãng mạn”, về biến chuyển và tác phẩm lớn. Nhiều giải thưởng của nhiều cuộc thi kéo dài một vài năm đã có chủ, các giải thưởng thường niên cũng đã… thường như giải thưởng, nhà văn và bạn đọc thân thiết hồ hởi mãn nguyện tái ngộ nhau trên những đầu sách in ra đều đặn… và người thực sự quan tâm đến khía cạnh nghề nghiệp trong đời sống văn chương lại tự hỏi, những sự kiện đang được hoạt náo kia có mang theo trong nó thông tin gì đích thực về thể trạng nghề viết hay không? Nếu có, thì nó là hiện trạng gì? Nếu ngược lại, thì phải tìm và biết những thông tin căn bản ấy ở đâu?

  • MIÊN DIVẫn biết, định nghĩa cái đẹp cũng giống như lấy rổ rá... múc nước. Vì phải qui chiếu từ nhiều yếu tố: góc nhìn, văn hóa, thị hiếu, vùng miền, phong tục... Tiểu luận be bé này xin liều mạng đi tìm cái chung cho tất cả những góc qui chiếu đó.

  • INRASARA1. Điểm lại mười căn bệnh phê bình hôm nay

  • XUÂN NGUYÊNHơn ở đâu hết, thơ mang rất rõ dấu ấn của người làm ra nó. Dấu ấn đó có thể là do kinh nghiệm sống, do lối suy nghĩ… đưa lại. Đứng về mặt nghệ thuật mà nói, dấu ấn trong thơ có thể được tạo nên bởi lối diễn đạt, bởi mức độ vận dụng các truyền thống nghệ thuật của thơ ca.

  • Linda Lê, nhà văn nữ, mẹ Pháp cha Việt, sinh năm 1963 tại Đà Lạt, hiện đang sống tại Paris, viết văn, viết báo bằng tiếng Pháp. Một số tác phẩm của nhà văn đã được dịch sang tiếng Việt và xuất bản tại Việt Nam như là: Vu khống (Calomnies), Lại chơi với lửa (Autres jeux avec le feu). Chị đã có buổi nói chuyện tại Trung tâm Văn hóa Pháp tại Huế vào ngày 15.10.2010 vừa rồi. Sau khi trao đổi về bản dịch, chị đã đồng ý cho phép đăng nguyên văn bài nói chuyện này ở Tạp chí Sông Hương theo như gợi ý của dịch giả Lê Đức Quang.

  • LÊ TIẾN DŨNGKhi nói đến thơ một vùng đất, thường người ta vẫn chú ý nhiều đến những vấn đề như tác phẩm, thể loại, đội ngũ… nghĩa là tất cả những gì tạo nên phong trào thơ của một vùng.

  • LẠI NGUYÊN ÂN(Trích đăng một phần tiểu luận)

  • KHẾ IÊMGửi các nhà thơ Đỗ Quyên, Inrasara và Lê Vũ