Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?
Nhà văn Tô Hoài. Ảnh: Nguyễn Đình Toàn
Cụm từ ấy xuất hiện từ những thăm thẳm xa, thuở cái dốc Bưởi có mấy cây vông vang cổ thụ đỏ như vông đông như tiết. Bưởi thuở đó hẵng còn rờn rợn vắng tuy là một cửa ngõ òa ra mạn Nghĩa Đô, cậu bé Nguyễn Sen áo chúc bâu nhung nhăng thoắt cái đu người điệu nghệ trên chuyến xe điện vào thành phố.
Bây giờ, những cục u mấu trên những me sấu cổ thụ nào của Hà thành một ngày giêng hai năm 1940 ấy chứng kiến những bước đi lúc ngập ngừng lúc dứt khoát của một chàng trai tên Nguyễn Sen thành danh Tô Hoài bởi truyện Dế Mèn... Rồi chàng trai Tô Hoài tuổi 26 không nhung nhăng men theo ngoại ô Nghĩa Đô để lên chiến khu mà hối hả, tốc táo nhập với đoàn quân kháng chiến qua mạn Vân Đình, Ba Thá... Những nhung nhăng năm kháng chiến của Tô Hoài không nối gót Nguyễn Tuân khua trống trong đêm công đồn Đại Bục mà lặng lẽ sang một hướng, một mạn khác xuyên mãi vào những con đèo chất ngất vùng Tây Bắc.
Nhung nhăng ấy là những năm ra trụ sở dân phòng họp tổ dân phố, khi sang Bà Triệu, Nguyễn Du họp với Hội Nhà văn lê la với những Nguyễn Tuân, Nguyễn Bính... ở quán rượu dốc Bà Triệu (đọc rồi để ý bây giờ chỗ quãng phố xuôi chuội ấy cũng thành dốc thì phải?). Có khi những nhung nhăng ấy chợt nhảo sang phi trường Gia Lâm để bay đến trời Tây trời Á, Âu để họp, để ngồi với những văn hào của thế giới, của Hội nhà văn Á Phi hay thơ thẩn chuyện trò với bà nấu bếp xứ Nga...
Biết bao nhung nhăng ấy (nhung nhăng còn hàm cái ý việc viết lách sáng tác như chơi chơi! Hình như là trời cho, mà chẳng nhiều nhặn những người viết như thế? Như là mọi ý nghĩ, mọi thứ đã có sẵn trong đầu rồi chỉ ngồi vào bàn là bày biện luôn ra giấy như cụ Tô Hoài một lần bộc bạch). Những bày biện ấy đã bầu lên một Tô Hoài đồ sộ với hơn 150 đầu sách (mới kể số đã in thôi)! Những nhung nhăng đã họp đã hợp thành những nhành những tán của một thứ thụ mộc sum suê.
Mà khép tán của bậc cổ thụ ấy tuyệt nhiên không làm cớm, không che chắn những khoảnh rừng lẫn các thứ cây nhỏ hơn. Một nhà văn nước ngoài nói, cái cây lớn thì tìm sự cô đơn trên cao? Nhưng thụ mộc Tô Hoài, trong từng mắt lá, từng thớ gỗ xoắn bện dẻo quánh luôn cúi, luôn rì rào rủ xuống đám viết lách mà rủ rỉ mà thủ thỉ, kiêm cả chức phận làm mát cũng như chở che? Bao nhiêu người, tôi không nhớ nhưng khá nhiều, đến cái thứ mọn như tôi, hồi chưa biết ông cũng đã tiếp được cái thư tay ông, rất cẩn thận gửi theo đường bưu điện góp ý về loạt phóng sự về hai ông vua Mèo, một ở Mèo Vạc, một ở Đồng Văn.
Mùa nực năm 1978, tôi được hầu một số đấng đi thực tế ở mạn Hòa Bình, Sơn La. Nghĩ thương các đấng thuở ấy, bây giờ mới thực là ăn là chén mà các cụ đâm thưa vắng hết cả rồi. Gọi là tiệc của Ủy ban tỉnh nhưng cũng chỉ có nửa con cầy với một con gà, đưa cay là thứ rượu sắn đắng nghét. Xong bữa khá háo, vừa khát vừa hiếu kỳ, tôi mon men đến bàn trà có cái ấm độc ẩm mà cụ Nguyễn Tuân đương lúc vui hào phóng bày ra. Cụ cũng hào phóng ban cho tôi một chén con hạt mít. Tôi nài thêm nữa thì bất đồ cụ thong thả cầm tay tôi chỉ ra ngoài đường, này có cái quán nước chè xanh chỗ đầu dốc kia ra mà làm mấy bát... Vừa ngại lẫn ngượng nhưng ngay sau đó cụ Tô Hoài máy tôi ra chỗ cái quán trà xanh kẹo bột ấy thực. Có lẽ với cụ Nguyễn, nhiều người kính, nhưng là thứ kính nhi viễn chi (đứng xa mà ngó) còn cụ Tô Hoài thì luôn dồi dào thứ trữ lượng mát mẻ lẫn ấm áp của những dung dị, gụi gần.
Những năm còn nhung nhăng trên phố Đoàn Nhữ Hài sau này dời xuống phường Nghĩa Đô, có biết bao tao nhân mặc khách lẫn tục khách ghé nhà mà cụ ông lẫn cụ bà đều chịu khó nghênh hết!
Nhớ thêm năm xa ấy, có mấy ông bạn Việt kiều cũng có viết lách, phim phiếc chi đó bên Canada nhờ tôi đưa đến cụ Tô Hoài và Kim Lân để họ phỏng vấn ghi hình... Nể bạn nhưng chả dám kêu điện thoại trước cho cụ, tôi cứ đường đột dẫn cả đám đến…
Đồng thời cũng dọn sẵn những câu xin đại xá nếu có bề gì. Nhưng may, cụ ông cùng cụ bà đều vui vẻ chuyện trò. Mà chật non cả một buổi. Bây giờ ngồi gõ những dòng này, chắc bên xứ trời Tây ấy còn lưu, còn diễn chiếu những thước phim ấm áp ngày nào? Còn tôi thì bỗng trơ khấc chả có gì cụ thể về những thời khắc đáng nhớ đó ngoại trừ những chắp nhặt bập bõm!
Nhớ cuối cữ rét năm xa ấy đi một vệt Tây Bắc, bữa về ngồi hầu chuyện cụ ở Nghĩa Đô, lẩn thẩn hỏi thêm cụ về Mường Giơn hay Mường Giôn? Làng Nghĩa Đô đã lên phường dày dịt bê tông loa lóa trắng rợn những nhôm kính. Câu chuyện đồng rừng dẫm lên vết chân của nhà văn Tô Hoài những năm 50, 60 ấy có cảm giác làm ông lão cựa quậy lên một chút cái tình đồng rừng lâu nay do hoàn cảnh phải nín thít đi thì phải?
Càng nghe cụ rủ rỉ những thứ này thứ khác, tôi bừng thêm cảm giác tiếc nuối lẫn ân hận bởi biết cái lứa lười biếng bất tài như chúng tôi thì trời có cho đến cả tuổi trăm thì riêng mảng Tây Bắc cũng chả bao giờ đạt đến cái tài cùng cái tình rừng một thuở một thời như tác giả Truyện Tây Bắc với Vợ chồng A Phủ đây! Mường Giơn giải phóng... Hóa ra là Mường Giôn. Mường Giôn của châu Quỳnh Nhai. Cụ không nhầm mà trong truyện Tây Bắc Mường Giôn thành Mường Giơn đơn giản vậy!
Bữa Quốc hội quyết định bỏ phiếu gộp xứ Đoài vào Hà Nội, chúng tôi ngồi lâu hơn với cụ Tô Hoài để nghe cụ nói kỹ hơn về nhà thơ Quang Dũng và những trữ năng về một xứ Đoài linh thiêng. Có cảm giác nhà văn là thủ lĩnh tinh thần đương lên dây cót cho các chiến binh mà mắt chưa quen với tinh kỳ, tai chưa quen nghe trống trận! Người ta nói nhiều đến tam thập nhi lập tứ thập nhi bất hoặc nhưng ít nhắc đến thất thập nhi tùng-tâm sở-dục bất du-củ. Tạm hiểu là đến năm 70 tuổi, con người đạt đến tình trạng hoàn hảo về cách xử sự và xử thế.
Nhờ đó mà mỗi khi người ta định nói điều gì hay làm việc gì thì tự nhiên thể hiện đúng với chủ tâm của lòng mình. Nghĩa là muốn sao được vậy, không bao giờ vượt ra khỏi khuôn khổ của đạo lý hay lẽ thường. Có phải là độ chín mà là chín nẫu của con người ở vào tuổi từ 70 trở lên nếu trước đó họ được giáo dục đúng cách, tự tìm tòi học hỏi, có kiến văn quảng bác, có tu tâm dưỡng tánh, đã từng trải cũng như rút được ưu khuyết điểm trong các kinh nghiệm về nỗi ê chề đớn đau của cuộc đời. Chất giọng rủ rỉ cùng với vẻ lặng lẽ kia của cụ tiên chỉ Tô Hoài ở độ cửu tuần, hình như là thứ ngôn ngữ, là cung cách trả lời, là một dạng một thứ bất du củ?
Có lẽ phải ám lâu hơn hình ảnh bữa cụ đã yếu lắm trong căn phòng 14 tầng 4 nhà 10 bệnh viện Hữu Nghị nhưng do cái ống xông luồn vô đường mũi nên cụ phát âm hơi khó... Nhưng cụ vẫn tỉnh táo trao đổi... Có một chốc, mãi đến lần thứ 3 chúng tôi mới nghe thủng cụ thều thào này cái bô-xít thế nào? Trời đất ơi, ai bảo đấy là ngôn ngữ bột phát của một cửu tuần đang cạn kiệt dần trữ lượng? Lại nhớ thêm khi hỏi thăm đến chỗ cụ do nhầm nên một bác sĩ ở tầng 3 thông báo cho chúng tôi biết ở đây không có ông Tô Hoài nào cả! Sau một cô trong đoàn thăm gạ mãi rằng nhà văn Tô Hoài ấy mà... Vị bác sĩ nọ đã phát cáu cái nhà chị này nhà văn Tô Hoài mà ai chả biết!
Nhà văn Tô Hoài mà ai chả biết…
Mà bữa nay hình như cụ đương nhung nhăng đâu đó?
Đêm 6/7/2014.
Nguồn: Xuân Ba - TPO
BỬU Ý
Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.
LÊ QUANG KẾT
Ký
Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).
VŨ THU TRANG
Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.
HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
Đoản văn
Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!
LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ
BÙI KIM CHI
Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.
KIM THOA
Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
(Hàn Mạc Tử)
NGUYỄN VĂN UÔNG
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên
(Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.
LÊ QUANG KẾT
Tùy bút
Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.
TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.
LÊ QUANG KẾT
Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.
HUY PHƯƠNG
Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên
(Tố Hữu)
PHAN THUẬN AN
Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.
MAI KIM NGỌC
Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.
HOÀNG HUẾ
…Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…
QUẾ HƯƠNG
Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.
THU TRANG
Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ
Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.