NHỚ VỀ TÁC GIẢ BÀI THƠ “HỒ CHÍ MINH, TÊN NGƯỜI LÀ CẢ MỘT NIỀM THƠ”

08:30 19/05/2019

CHU HUY SƠN

Khó có thể kể hết những nhà thơ Việt Nam và thế giới bắt gặp cảm hứng từ cuộc đời cao đẹp và vô cùng trong sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để sáng tác nên những tác phẩm về Người. Song, tôi cho rằng, bài thơ “Hồ Chí Minh - tên Người là cả một niềm thơ” của nhà thơ Cuba là một trong những sáng tác hay nhất viết về Bác.

Thi hào Felix Pita Rodriguez - Ảnh: TL



Bài thơ được viết ra khi cuộc kháng chiến chống xâm lược nhằm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước của nhân dân ta ở vào thời kỳ quyết liệt. Nguyên bản tác phẩm bằng tiếng Tây Ban Nha có nhan đề là “Ho Chi Minh, su nombre puede escribir en puema” (dịch nghĩa: “Hồ Chí Minh, tên của Người có thể viết thành thơ”). Dịch giả Hoàng Hiệp đã chuyển tác phẩm sang tiếng Việt một cách sáng tạo, diễn tả được thần thái của thi phẩm thành bài thơ mà nhiều người biết tới: “Hồ Chí Minh, tên Người là cả một niềm thơ”. Tác giả bài thơ ấy là Phêlích Pita Rôđrighết (Felix Pita Rodriguez; 1909 - 1990).

Tôi có cơ may được gặp ông ngay sau ngày tới Thủ đô La Habana là nhờ thư giới thiệu của nhà thơ Chế Lan Viên. Chả là tôi vốn yêu thơ, thi thoảng gửi bài sáng tác nhờ Chế Lan Viên đọc góp ý để đăng báo. Ngày ấy, đoàn chúng tôi gồm 10 phóng viên đa phần được triệu về từ vùng đang có chiến sự ác liệt, nhận quyết định đi Cuba bồi dưỡng nghiệp vụ thời gian 4 năm theo Hiệp định ký giữa Việt Nam Thông tấn xã (nay là Thông tấn xã Việt Nam) với Thông tấn xã Prensa Latina (hãng TTX của Nhà nước Cuba). Nhà thơ Chế Lan Viên khi đó có con trai đang học đại học về kỹ thuật truyền hình ở Cuba. Trước ngày tôi lên đường, ông gặp để gửi thư và quà quê hương cho con và nhờ chuyển một lá thư cho Phêlích Pita Rôđrighết. Ông nói sang đó liên hệ với Phêlích để được giúp đỡ và học thơ bằng tiếng Tây Ban Nha. Bấy giờ điện thoại chưa phổ biến ở Hà Nội, đề phòng tôi vắng nhà, ông còn chu đáo viết sẵn một lá thư ngắn cho tôi. Dù nhiều năm đã trôi qua, tôi hãy còn nhớ bức thư có đoạn: Đường vào thơ gian khổ như mọi con đường khác. Biết rõ thế để khổ công rèn luyện thì mới mong thành công, nếu không thì thất bại.

Vào một ngày chủ nhật, chúng tôi tới thăm gia đình Phêlích như lời hẹn trước. Dạo ấy đang mùa hạ, La Habana chang chang nắng và đầy ắp gió biển. Hoa phượng rắc màu cờ trên các phố phường Thủ đô. Liên, cháu nội của nhà thơ ra mở cổng đón chúng tôi vào nhà. Liên là một bé gái chừng 7, 8 tuổi có khuôn mặt thông minh thanh tú. Bà Carơmên, vợ của nhà thơ nhanh nhẩu giới thiệu ngay về đứa cháu gái có cái tên Việt Nam là Liên: Một lần, đọc báo biết trong đoàn anh hùng, dũng sĩ miền Nam Việt Nam sang thăm Cuba có chị Nguyễn Thị Liên. Tên gọi Liên của cháu có từ đó. Fêlích giải thích thêm về ý nghĩa của từ ngữ: Đó là một từ đẹp trong tiếng Việt. Nhiều thiếu nữ Việt Nam được gọi bằng tên như thế. Liên có nghĩa là hoa sen gọi theo âm Hán - Việt. Về nhà, tôi viết bài thơ Em gái Cuba, mở đầu và khổ kết như sau: Em gái Cuba tên gọi là Liên,/ Âm tiếng Việt dịu dàng quá đỗi,/ Có hiểu lòng Mẹ Cha em hỡi,/ Gọi tên này để nhớ mãi Việt Nam/…Tận bán cầu Tây, anh gọi tên em,/ Nghe xao xuyến vọng về nỗi nhớ,/ Có cánh cò bay tên đồng lúa trỗ,/ Trùng điệp rừng dừa như biển palma,/ Gặp dáng quê nhà trên đảo Cuba.

Không khí trong gia đình bỗng chốc trở nên thân mật, tự nhiên thoải mái. Phêlích tiếp chúng tôi ngay tại phòng làm việc của ông. Đó là một căn phòng bốn bề toàn sách. Sách xếp cao tới tận trần nhà. Ở khoảng tường trống chính giữa trước bàn làm việc có treo trân trọng tấm ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bên cạnh có bức tranh in hình Bác Hồ ngồi đọc sách bên bờ suối với hàng chữ: “Ho Chi Minh, su nombre puede escribir en puema” (Hồ Chí Minh, tên Người là cả một niềm thơ). Trên bàn có khá nhiều sách báo, tài liệu về Việt Nam và các bản dịch văn học Việt Nam ra tiếng Tây Ban Nha mà Phêlích đang làm. Trong đó, có Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tác phẩm này ông dịch qua bản tiếng Pháp do Hội Nhà văn Việt Nam gửi tặng. Dịp ấy, Thư viện Quốc gia Cuba - Thư viện mang tên người anh hùng dân tộc Hôsê Mácti (José Martí) và Thư viện Nhà Châu Mỹ (Casa de las Américas) trưng bày cuốn sách mầu hồng nhạt có hình con chim bồ câu trắng dang rộng cánh bay, trên bìa in đậm Truyện Kiều của Nguyễn Du bằng tiếng Tây Ban Nha. Đây là cuốn sách do Phêlích dịch và giới thiệu, được ấn hành ở một số nước châu Mỹ Latinh nhân dịp Hội đồng Hòa bình thế giới quyết định kỷ niệm Nguyễn Du là danh nhân văn hóa thế giới. Phêlích bảo rằng, việc dịch toàn bộ Truyện Kiều là một việc khó khăn lớn bởi ngôn ngữ, điển tích, biểu đạt tình cảm qua hình ảnh…, nhưng ông vẫn kiên trì tiến hành bởi đây là một kiệt tác có giá trị lớn về văn hóa và mang ý nghĩa xã hội rộng lớn. Nhà xuất bản Causachun ở Thủ đô Lima (Pêru) đã cho ra mắt bạn đọc tập Thơ Việt Nam anh hùng. Phần Thơ Việt Nam về chủ đề chiến tranh cách mạng của cuốn sách bao gồm một số bài thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và thơ của các nhà thơ Việt Nam khác, là do Phêlích dịch và viết lời giới thiệu.

Đang câu chuyện, có tiếng chuông từ ngoài cổng vọng vào, Phêlích ra đón khách. Một lát sau ông trở vào với chồng sách trên tay, vừa cười vừa hồ hởi nói về một sinh viên mà ông chưa kịp hỏi tên. Anh sinh viên ấy biết Phêlích đang nghiên cứu và viết về Việt Nam, nên đã sưu tầm tài liệu đem tới tặng ông. Tiếp đến, một cán bộ phụ nữ từ ngoại ô La Habana tới thăm và mời nhà thơ nói chuyện về Việt Nam cho khu phố của mình. Bà Carơmen cho hay, hàng ngày vẫn thường có khách như thế. Cả hai ông bà đều vui mừng và cảm thấy tự hào bởi đang làm những công việc hữu ích.

Đến đây, thấy cần giới thiệu đôi nét về Phêlích Pita Rôđrighết. Ông sinh trưởng ở Cuba. Nhắc đến Phêlích P. R., bạn đọc Cuba và Mỹ Latinh nghĩ ngay đến một nhà báo, nhà văn có biệt tài về thể truyện ngắn. Với những truyện ngắn như Tobiat, Sự cướp giật…, ông trở thành một trong những nhà văn có biệt tài về thể loại này bằng tiếng Tây Ban Nha. Phêlích còn là một nhà thơ, nhà phê bình văn học nổi tiếng. Ngay từ khi 16 tuổi, ông đã tạo được ấn tượng trong người đọc bằng những bài thơ đầu tay có bản sắc rõ nét. Thơ ông mang tính chiến đấu cao được hòa nhuyễn trong chất trữ tình. Ông đặc biệt thành công trong thơ thời sự. Đặt chân tới nhiều miền đất của thế giới, ông vừa viết báo, vừa làm thơ, viết văn. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam chống Mỹ xâm lược, Phêlích đã sang thăm nước ta hai lần. Giữa khói lửa đạn bom, không kể hiểm nguy, ông đã tới tận vùng có chiến sự để gặp gỡ cụ già, em nhỏ, các chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang. Phêlích được gặp Bác Hồ tại Hà Nội. Ông cho rằng, đó là một ngày cảm động hiếm thấy, có ý nghĩa nhất trong đời cầm bút của mình. Về nước, ông sáng tác một loạt truyện ký và thơ về Việt Nam trong đó có bài thơ Hồ chí Minh, tên Người là cả một niềm thơ. Hai tập sách Nhật ký về Việt Nam Thiếu nhi Việt Nam được xuất bản với số lượng lớn, phát hành rộng ở các nước Mỹ Latinh. Ông kể đã đọc sách “Nhật ký trong tù” của Bác Hồ qua bản dịch tiếng Pháp (nhiều người Cuba gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh là Bác Hồ). Hôm ấy, ông nêu nhận xét mà tôi còn ghi nhớ mãi: Thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh là thơ của một vị lãnh tụ vĩ đại duy nhất của thế kỷ này đi vào tương lai.

Một thời ở Việt Nam, bài hát Cây đàn ghi ta của Víchto Hara khá quen thuộc đối với giới trẻ yêu ca hát. Nhân đây xin kể về sự ra đời của ca khúc này. Ở Mỹ Latinh, sau Phidel Castro của Cuba thì Tổng thống Aigende của Chilê được cho là người đặc biệt yêu quý Việt Nam và kính trọng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại phòng làm việc của Tổng thống Aigende, chỉ thấy đặt một bức ảnh duy nhất là ảnh Bác Hồ. Những ngày diễn ra đảo chính ở Chilê do tên độc tài Pinôchê cầm đầu, chúng tôi cùng sinh viên Cuba đi mít tinh, tuần hành thâu đêm suốt sáng. Ở thư viện trường Đại học Tổng hợp La Habana, tôi đọc được bài thơ Cây đàn ghi ta của Víchto Hara - một sáng tác mới của Phêlích P. R. đăng trên báo Cá Sấu (người ta ví Quốc Đảo Cuba giống hình con cá sấu xanh). Trong tình cảm yêu mến Chilê - Tổ quốc của đại thi hào Pablo Neruda, kính trọng Tổng thống Aigende, căm thù đế quốc và lũ tay sai phản động vừa mới sát hại nhạc sĩ tài năng Victo Hara (người mà tôi đã được gặp và xem biểu diễn ở La Habana) cùng nhiều nhà yêu nước khác của Chilê ở sân vận động trung tâm Thủ đô Santiago de Chile, xúc động trước thi tứ của tác phẩm, tôi nẩy ra ý định dịch bài thơ ra tiếng Việt. Qua điện thoại, Phêlích đã rất chu đáo giải thích cặn kẽ những từ ngữ, hình ảnh mà tôi chưa hiểu hết ý nghĩa. Có lúc giọng của nhà thơ lão thành bị át đi bởi tiếng ho dài. Biết ông không được khỏe, tôi nói lời xin lỗi và cám ơn, tạm biệt. Tôi gửi bài thơ dịch ấy về cho nhà thơ Chế Lan Viên. Ít lâu sau, bài thơ được đăng trên báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam. Nhạc sĩ Phan Nhân đã phổ nhạc thành bài hát quen thuộc đã nói ở trên. Bản nhạc cũng được báo Văn Nghệ đăng với đầy đủ tên tác giả bài thơ, người dịch, người phổ nhạc.

Trước ngày rời Cuba lên đường về nước, tôi chọn một số bài thơ sáng tác của mình rồi tự dịch sang tiếng Tây Ban Nha, đem gửi cho Phêlích Pita Rôđrighết nhờ sửa giúp. Một kỷ niệm đẹp nữa đối với tôi: báo Gazeta de Cuba (tờ báo của Hội Văn nghệ Cuba) đã đăng chùm thơ này.

Ngày tháng trôi qua, song những kỷ niệm về Phêlích Pita Rôđrighết, một người cầm bút Cuba đầy tâm huyết vẫn còn rõ trong tôi. Hôm ấy ra về chúng tôi đi men theo con đường đầy phượng vỹ, trĩu nặng tiếng ve báo mùa. Biển ở ngay gần đó xanh ngắt một mầu. Sóng từng đợt ào ạt xô bờ, như hát mãi bài ca không bao giờ dừng lại. Lòng tôi cứ bâng khuâng suy nghĩ về một nghệ sĩ Cuba tóc bạc trắng đáng kính, đáng quý làm sao; suy nghĩ về anh sinh viên chưa quen biết, về chị cán bộ phụ nữ thành La Habana, về bé Liên có khuôn mặt thông minh, thanh tú - mà suốt cuộc đời em gắn bó với Việt Nam trước tiên bằng tên gọi của mình.

C.H.S  
(TCSH363/05-2019)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN THÙY MAI.Năm giờ sáng, máy bay chở chúng tôi đáp xuống sân bay Incheon. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên vang lên với lời cảm ơn và câu chào tạm biệt, sau khi báo một thông tin làm chúng tôi ớn lạnh: Nhiệt độ bên ngoài là 4 độ C...

  • ĐẶNG NHẬT MINHLà một thương cảng của Nhật Bản, nhưng Fukuoka lại được nhiều người biết đến như một thành phố của nhiều hoạt động văn hoá mang tầm quốc tế. Tôi có duyên nợ với thành phố này từ năm 1991 khi được mời tham dự Liên hoan phim quốc tế Fukuoka lần thứ nhất với bộ phim Bao giờ cho đến tháng 10.

  • PHẠM XUÂN PHỤNGChữ tea trong tiếng Anh là do dùng mẫu tự La -tinh để ký âm chữ trà (âm Hán Việt) mà người Trung Hoa nói rất rõ là chè. Lâu nay cứ tưởng chè là tiếng thuần Việt hoặc là biến âm của trà, hóa ra chè lại là từ gốc của trà. Mẹ mà nhầm là con, vui thật.

  • BÙI NGỌC TẤNLần đầu tiên đặt chân tới Châu Âu, có biết bao nhiêu ấn tượng. Ấn tượng về những nét mặt người, về những dáng người đi, về bầu trời không vẩn bụi trong veo, về những xa lộ, về những chiếc xe phóng với tốc độ 140 kilômét không một tiếng còi, nối nhau trên các con đường tám đến mười làn xe chạy không còn biên giới cách ngăn...

  • NGUYỄN VĂN DŨNGCó người nói Praha đẹp hơn Paris . Tôi không tin. Nhưng bây giờ thì tôi thấy nhận xét ấy không phải không có căn cứ. Praha là thành phố cổ kính nguyên vẹn nhất châu Âu, là “thành phố của trăm tháp vàng”, là “bài thơ bằng đá”, là khúc hát đắm say, là cốc rượu nồng nàn, là bức tranh tuyệt mĩ, là mảnh thời gian còn sót lại... Năm 1992, Praha được công nhận là di sản văn hoá thế giới.

  • PHẠM THỊ CÚCCó người nghĩ rằng, ở các nước giàu, thì ít người thất nghiệp. Không đâu, ở Pháp, người thất nghiệp cũng khá nhiều, mà đâu phải vì không có bằng cấp mà thất nghiệp, đa số họ đều có bằng kĩ sư, cử nhân, cả thạc sĩ hẳn hoi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGAmazon là tên khu rừng lớn nhất thế giới. Amazon cũng là tên con sông, theo khảo sát mới đây, là con sông dài nhất thế giới. Amazonas, quê hương của hai Amazon kia, là bang rộng nhất trong 26 tiểu bang của Brasil - rộng hơn cả diện tích của nước Anh, Đức, Pháp, Ý cộng lại. Còn Manaus, là kinh đô của Amazonas miên man núi rộng sông dài.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG    Tôi thật sự xúc động khi đứng trước ngôi mộ của Lý Tiểu Long. Trước đây tôi hình dung nơi an nghỉ cuối cùng của anh phải là một ngôi đền cực kỳ tráng lệ cho xứng với tên tuổi lẫy lừng của anh. Sau khi anh mất, một tờ báo ở Sài Gòn hồi đó viết đại loại trong thế kỷ XX, anh là một trong ba nhân vật nổi tiếng nhất châu Á.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGVới Phật giáo, Linh Thứu là ngọn núi thiêng. Sau khi thành đạo, một thời gian dài Linh Thứu là trú xứ của đức Phật và các đệ tử của Ngài. Tại đây Ngài đã giảng kinh Pháp Hoa và nhiều bộ kinh quan trọng khác. Linh Thứu còn là nơi khởi phát dòng Thiền Ấn Độ để rồi từ đây hạt giống Thiền được gieo trồng khắp nơi trên trái đất.

  • PHẠM PHÚ PHONGTrong lịch sử đất nứơc Trung Hoa có sáu nơi được chọn làm thủ đô, theo thứ tự Lạc Dương, Tây An, Nam Kinh, Khai Phong, Hàng Châu và Bắc Kinh là thủ đô thứ sáu, tồn tại cho đến ngày nay. Bắc Kinh đầu tiên là kinh đô của nước Yên, nên còn gọi là Yên Kinh, sau đó đến thời Minh Thành Tổ cho xây dựng trở thành Bắc Kinh ngày nay. Với diện tích 18.826 km2, Bắc Kinh rộng gấp 18 lần so với thủ đô Hà Nội, được mệnh danh là thành phố bốn nhiều: nhiều người, nhiều xe, nhiều cầu vượt, nhiều di tích...

  • Từ một trại lính đầy vết đạn ở vùng California (Hoa Kỳ) đã xuất hiện một tu viện Phật giáo - Tu viện Lộc Uyển - do nhà sư gốc Huế - Thiền sư Thích Nhất Hạnh - gầy dựng. Tại đây, ảnh hưởng của Thiền học Việt Nam đã tạo được một sự chuyển hóa đầy thử thách: biến trung tâm luyện tập bắn súng trở thành thiền đường đầy ánh sáng và tình thương, có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiếu người ở Hoa Kỳ.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Teresa Wattanabe đã đăng trên tờ Los Angeles Times, tờ nhật báo lớn hạng ba của Hoa Kỳ, với bản dịch của Làng Mai và ảnh của Nguyễn Đắc Xuân để giới thiệu với bạn đọc như một dòng chảy của văn hóa Phật giáo xứ Huế.

  • TRẦN THÙY MAICác quan chức ngành khí tượng Nhật Bản đã cúi gập mình xin lỗi toàn dân: Hoa anh đào sẽ nở ngày 23 thay vì 16 - 3 như dự báo. Đến sân bay Narita vào đúng sáng 24, tôi tự nghĩ mình đến rất kịp thời, nên khi cậu cảnh sát làm thủ tục nhập cảnh hỏi về mục đích đến Nhật, tôi đã không ngần ngại trả lời chắc nịch: “Ngắm hoa anh đào”. Cậu cảnh sát khoanh cái rụp vào lời khai của tôi và “OK” ngay với một nụ cười trên môi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGNằm giữa trung tâm bán đảo Iberia, thủ đô Tây Ban Nha trải rộng trên các ngọn đồi dưới chân rặng Sierra de Guadarrama, ở độ cao 640m so với mặt nước biển - là thành phố cao nhất châu Âu. Diện tích 607 km2. Dân số gần 4 triệu người.

  • KEVIN BOWEN
    (Giám đốc WJC)

    LTS: Trong 25 năm qua tên tuổi nhiều nhà văn, nhà thơ của Trung tâm William Joiner (Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ) như Kevin Bowen, Fred Marchant, Nguyễn Bá Chung, Lady Borton, Martha Colline, Bruce Weigl, Lary Heinemann... đã xuất hiện trên Sông Hương cũng như trên nhiều báo chí văn nghệ, văn hoá trong nước với những tác phẩm tâm huyết, mến yêu đất nước Việt Nam cũng như những hoạt động trên các lãnh vực giao lưu văn hoá, giúp đỡ y tế, giáo dục cho Việt Nam sau chiến tranh, như những biểu hiện của sự ân hận, tủi hổ với những gì mà đất nước họ đã gây ra trên mảnh đất này.

  • NGUYỄN BÁ CHUNG

    Tháng 10 năm 2007 đánh dấu 25 năm thành lập trung tâm Joiner. Nhưng với tôi, nó đánh dấu một đoạn đường 20 năm nổi chìm với trung tâm, trong đó có 15 năm làm thiện nguyện và 10 năm cuối cùng làm việc chính thức. Hai mươi năm là một thời gian dài đủ để nhìn lại, ghi lại một số kỷ niệm và rút ra một số kinh nghiệm để nhìn tới đoạn đường phía trước.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNHoạt động yêu nước ở miền Nam từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi không lạ gì nước Mỹ. Thuở ấy, Phan Ch. anh bạn vong niên của tôi làm phiên dịch ở cơ quan MACV ở Huế từng bảo tôi “Người Mỹ giống như một cậu bé con nhà giàu nhưng thiếu lễ độ”.

  • VÕ QUÊNhận lời mời của Hội đồng quốc gia vì nghệ thuật truyền thống Hoa Kỳ (National Council for the Traditional Arts), đoàn nghệ sĩ thuộc Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tham dự Festival dân ca dân nhạc tại thành phố Lowell, bang Massachusetts, Hoa Kỳ từ ngày 25-7-1995.

  • NGUYỄN XUÂN THÂMChúng tôi đến Aten vào cuối tháng chín, mà buổi trưa vẫn còn oi bức như bao trưa miền biển ở Việt . Thanh Tùng và tôi loay hoay mãi vẫn không bắt được taxi để chuyển tiếp đến sân bay nội địa.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGSau Cali tôi định đi Dallas, nhưng rồi chuyển hướng, tôi lên Seattle theo vẫy gọi của bạn bè. Ai ngờ cái thành phố nầy dịu dàng, xanh và đẹp đến vậy. Hèn chi người ta gọi nó là “Thành phố ngọc bích” ( Emerald City ), hay “Mãi mãi xanh tươi” ( Evergreen State ).

  • PHẠM THƯỜNG KHANHĐầu năm nay khi biết tôi chuẩn bị đi công tác Trung Hoa, em gái tôi, một người thơ gọi điện từ Huế ra bảo: “Anh cố gắng mà cảm nhận vẻ đẹp rực rỡ của văn minh Trung Hoa. Hình như với bệ phóng vững chắc của nền văn minh hàng ngàn năm ấy, người Trung Hoa đang có những cuộc bứt phá ngoạn mục và trong tương lai dân tộc này còn tiến xa hơn nữa”. Là một quân nhân, tôi đâu có được trí tưởng tượng phong phú và trái tim dễ rung động như em tôi, nhưng 10 ngày trên đất nước Trung Hoa đã để lại trong tôi những ấn tượng thật sâu đậm.