Nhớ lại một thời...

10:35 30/05/2011
Mới đó mà đã gần ba mươi năm trôi qua, kể từ khi những văn nghệ sỹ trẻ xứ Huế cùng hội ngộ với nhau trong Câu lạc bộ Văn học Trẻ Huế những năm tám mươi thế kỷ hai mươi.

Nhà thơ Phùng Tấn Đông

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Mới đó mà đã có đến ba thế hệ viết trẻ khởi đi từ Huế, góp phần làm nên vóc dáng văn học vùng Huế và miền Trung hùng hậu. Trong số đó, đến bây giờ nhiều người đã mệt nhoài buông bút, nhiều tác giả vẫn đang miệt mài cày xới trên cánh đồng văn, nhưng ngọn lửa ngày ấy thì vẫn đang cháy trong tim, như ánh lửa chờ thắp lại lúc nối tay ngày về.

Ngọn lửa ấy đã thao thiết cháy cùng Tạp chí Sông Hương bao tháng năm qua. Nó cần được nhắc lại, nó cần được thắp lại ngọn nến để những yêu dấu tìm về. Và vì lẽ đó, chuyên đề dành cho Viết trẻ Huế được giới thiệu đến bạn đọc trong số báo này.

Dĩ nhiên, cuộc chơi còn nhắc đến bạn bè đã đến và đi, chỉ là ngẩu nhiên bởi sự có mặt của bản thảo, không hề chọn lựa: Lê Vĩnh Tài qua ánh nhìn Khánh Phưong, Vi Thùy Linh qua Trần Thiện Khanh, Tuệ Nguyên qua Lê Minh Phong.
Xin giới thiệu cùng bạn đọc!
SÔNG HƯƠNG



PHÙNG TẤN ĐÔNG


Nhớ lại một thời...


“Như có thể chết đi, bỗng nhiên; nhưng không bao giờ ngờ vực
điều chúng ta tồn tại với thơ ca”
(Phạm Tấn Hầu - Thơ để ngỏ)


Cũng đã gần 30 năm... Những tháng năm, những khuôn mặt cứ lùi xa trong trí tưởng. Anh em bạn bè ngày ấy có người thi thoảng về Huế gặp nhau, có người trôi dạt mãi đẩu đâu góc bể chân trời, có người đã không còn trên cõi thế. Tưởng có thể quên đi nhưng chỉ cần một nhắc nhớ, cánh cửa ký ức mở tung, hiển hiện về bao nhiêu là khuôn mặt, bao nhiêu là cảm xúc, nghĩ ngợi, cơ man bao chuyện vui buồn.

Trong lời giới thiệu cho tập thơ “Thơ trẻ Huế” của 15 tác giả do Thành đoàn Huế xuất bản tháng 9 năm 1984, anh Nguyễn Khoa Điềm viết: “Tại ngôi nhà 22 Trương Định, cạnh cầu Trường Tiền, có một nhóm anh chị em làm thơ trẻ thường tới lui sinh hoạt. Ngôi nhà này ngày trước là trụ sở Tổng hội sinh viên Huế, nơi phát xuất các cuộc đấu tranh của tuổi trẻ học đường dưới thời Mỹ - tay sai, nay là cơ sở hoạt động của Đoàn thanh niên Cộng sản thành phố...” và “...chúng ta cũng đang phấn đấu hình thành thế hệ thứ tư những người cầm bút...”.

Những năm ấy, tôi rời bộ đội về học Đại học Sư phạm. Các thầy cô ở khoa Ngữ văn sau cuộc thi văn học của khoa đã trao giải và gửi đăng các tác phẩm của tôi trên tạp chí Sông Hương - cả thơ và truyện ngắn nên được mời đến sinh hoạt tại câu lạc bộ văn học Thành đoàn và “nghiễm nhiên” nằm trong “thế hệ thứ tư” ấy của Huế. Tôi còn nhớ, những bạn bè là sinh viên, công chức lúc ấy ai nấy đều háo hức trong việc sáng tác, sáng tạo là phải mới, phải làm mới văn chương. Mà đâu chỉ anh em, những cán bộ Đoàn và anh em “phong trào” sinh viên học sinh trước 1975 cũng háo hức không kém. Bên Đoàn có Lê Phùng, chị Thọ, chị Đấu, chị Dung, anh Diệu, Khắc Công, Trần Văn Tiến..., anh em “phong trào” có Phạm Tấn Hầu, Thái Ngọc San, Võ Quê, Văn Hữu Tứ... Khoa Văn Sư phạm có thầy Trần Thức, Hoàng Dũng, cô Trần Thùy Mai... Khoa Văn Tổng hợp có Phạm Phú Phong... Thành viên của câu lạc bộ rất “hùng hậu” như trường Tổng hợp có Lê Viết Tường, Hồ Thế Hà, Trần Thị Huyền Trang, Phạm Đương, Trần Bá Đại Dương, Trần Thị Kim Oanh... Sư phạm có Trần Hoàng Phố (thầy Bửu Nam), Phùng Tấn Đông, Mai Nguyên, Thu Hồng, Võ Văn Luyến, Lê Công Doanh, Bạch Lê Quang... Các tác giả là viên chức, công chức, ngành nghề tự do có Trần Thị Hiền, Đỗ Văn Khoái..., sau này có Nguyễn Quang Lập từ bộ đội về làm ở Sở Văn hoá Bình Trị Thiên tham gia sinh hoạt.

Những năm tháng ấy có thể nói, gạt hết những góc tối trong mỗi đời riêng - cái mà người đời gọi là thân phận - thì đó là những ngày đầy ắp khát vọng, những ngày “sống trong hạnh phúc” bởi tất cả các thành viên cùng hướng đến một mục đích là viết những tác phẩm hay, có ích, viết và làm mới văn chương, những tác phẩm không lặp lại, không bước giẫm lên dấu vết của những người đi trước. Tôi còn nhớ trong lời giới thiệu trên Sông Hương số 15, tháng 9 và 10 năm 1985, Tòa soạn viết: “Thế nào là tác giả trẻ, cây bút trẻ, nghệ sĩ trẻ? Một cách gọi như vậy không phải không gây ra những tranh cãi ngay ở nước ta và nhiều nước trên thế giới. Bởi vì trong sáng tạo văn nghệ, tuổi không phải là vấn đề tiên quyết. Tuy nhiên trong thực tế nghề nghiệp - nếu coi hoạt động văn nghệ như một nghề nghiệp - thì vẫn có một lớp người “học nghề” để “thành nghề” và tiếp tục sự nghiệp của người đi trước. Chúng tôi đề nghị hãy gọi đội ngũ đó là những người kế tục sự nghiệp văn nghệ... Họ thuộc về tương lai của nền văn nghệ chúng ta”.

Thực sự với chúng tôi, những sinh viên còn ngồi trên ghế giảng đường thì việc “học nghề” viết là lẽ đương nhiên bởi dẫu sao nghề thầy giáo dạy văn đã gắn với nghiệp văn chương, thế nhưng có một môi trường để trao đổi, học hỏi lẫn nhau bằng các sáng tác mới và mạnh dạn trao đổi, phẩm bình với tư cách anh em bè bạn theo kiểu “nếu không phải là bạn tôi thì còn ai dám nói sự thật về tôi với tôi” của một triết gia nào đó tôi quên tên thì hẳn nhiên là quá lý tưởng... Làm sao không nhớ những đêm thơ ở Đại học Sư phạm, Đại học Tổng hợp, ở Trụ sở Hội Văn nghệ, ở 22 Trương Định... Những giọng thơ hào sảng, đầy tính chất “quảng trường” kiểu Mayakovsky, những ca khúc phổ thơ thời phong trào của Trần Quang Long qua giọng hát của anh Lượng, thơ Võ Quê qua giọng hát của Lê Phùng... Một Lê Viết Tường tràn đầy nhiệt huyết với bài thơ “Khúc hát đường chân trời”, một Trần Thị Huyền Trang nữ tính và triết lý với “Logíc của rubic”, một Trần Bá Đại Dương đầy ắp cảm xúc của lý tính với “Ghi nhận ở cầu Trường Tiền”... Làm sao không nhớ những buổi giới thiệu tác phẩm mới, hội thảo về thơ, truyện ngắn như thầy Bửu Ý giới thiệu thơ J. Prèvert, giới thiệu truyện ngắn phương Tây hiện đại - số đặc biệt của tờ Le Monde số 6.1984, hội thảo về thơ “Trần Vàng Sao - người đàn ông 43 tuổi...”, hội thảo về nhạc vàng (Nguyễn Quang Lập đứng lên làm ca sĩ hát minh hoạ nhạc viết theo đơn đặt hàng về kế hoạch hóa gia đình), mời nhà văn Nguyễn Minh Châu nói chuyện về sáng tác... Những năm tháng ấy, câu lạc bộ văn học Thành đoàn được sự hỗ trợ rất lớn từ các anh chị ở Hội Văn nghệ mà “chủ trì” là anh Nguyễn Khoa Điềm, anh Tô Nhuận Vỹ, anh Hoàng Phủ Ngọc Tường... Trong các sinh hoạt văn học, những cây bút trẻ mạnh dạn thể hiện chính kiến của mình về mọi vấn đề. Có nhiều lần các diễn giả phải nổi cáu như lần anh em hỏi anh Hoàng Phủ Ngọc Tường một cách ráo riết rằng có phải anh chọn việc ngợi ca cỏ hoa, thiên nhiên xứ Huế để tránh vấn đề “chống tiêu cực” vốn là thế mạnh của thể ký? Anh Tường đỏ mặt tía tai “Tui bênh vực cái Đẹp, tôn vinh hoa cỏ cũng là một cách “chống tiêu cực” của riêng tui, vấn đề không thể cãi với các anh được”. Bầu không khí thật sự dân chủ những năm đầu đổi mới đã giúp chúng tôi học hỏi lẫn nhau, học hỏi thế hệ đi trước để tự nâng tác phẩm mình lên, để việc đứng trong hàng ngũ những kẻ viết không phải là việc “đứng cho đẹp đội hình” hoặc giả chuyện văn chương chỉ là chuyện chơi, bằng lòng với việc ngồi “tâng bốc lẫn nhau” một tấc đến trời... Tôi nghĩ không có tuổi trẻ nào mà không khát vọng làm mới văn chương nghệ thuật thế nhưng những năm tháng ấy chúng tôi như hợp thời cuộc, gặp “nhân duyên” - những người trẻ đầy ắp khát vọng gặp một thế hệ đàn anh tràn đầy nhiệt huyết, sẵn sàng “lắng nghe và thấu hiểu”, sẵn sàng chịu trách nhiệm khi đăng tải và “phát tán” những tác phẩm của chúng tôi ra cộng đồng, cộng với môi trường xã hội lúc ấy, nô nức trước trào lưu “đổi mới”... Những năm ấy, nhiều khi khát vọng của chúng tôi khiến nhiều người ngộ nhận là cắt đứt truyền thống, phủ nhận những người đi trước, kỳ thực - cũng như một thế hệ trước đó, tạm gọi là thế hệ “phong trào”, chúng tôi mong muốn đổi thay. Văn chương nghệ thuật mà không có gì gọi là mới thì còn gì là văn chương nghệ thuật. Một người bạn, giờ đã trôi dạt về phương Nam, mù tăm tin tức là Thiệp Đáng - người có những câu thơ hết sức ấn tượng như “những con bò mang guốc đi về phía cỏ non...”, “lá mọc trên đầu tôi hồi nửa đêm nguyên tiêu - từ đó tôi hoá nên một thực thể xanh biếc” (Bài “Lá” SH số 2 (41) - tháng 2,3/1900)... Rất nhiều năm sau, thời hậu câu lạc bộ văn học Thành đoàn vẫn viết với một cách thức mới mẻ như thế bằng sự xác tín mạnh mẽ về việc viết của mình... Mấy năm sau ngày Lê Viết Tường mất ở Bến Me, tôi về Đăk Lăk, ghé Sở Văn hoá, nơi Tường công tác, anh em chỉ về phía một góc cơ quan, còn lại mấy cái xoong nhôm sứt mẻ của vợ chồng Tường, một đống báo cũ nghe nói của vợ chồng thi sĩ dùng để dán bao bì đem bỏ chợ cho các bà nội trợ gói hàng... Xốn xang trong tôi một khúc hát về đường chân trời của tin yêu và khát vọng... Tôi về Nha Trang sau gần 25 năm hỏi thăm Trần Thị Kim Oanh thì mới biết Oanh có thâm niên mười mấy năm trong viện tâm thần “giờ có nhận ra được ông đâu, đến tên mình cô ấy còn không nhớ”.

Làm sao không nhớ những sáng Tịnh Tâm, những chiều Thiên Mụ, những đêm Lữ quán, nhà 22... Một chuyện riêng - tôi được anh chị em Thành đoàn tín nhiệm (có lẽ do đói kém nhất bọn) được mời dạy lớp Sao Khuê - lớp sáng tác văn học thiếu nhi của Nhà Thiếu nhi Huế sau anh Võ Quê, cô Ẩn. Chẳng biết các em tôi dạy, văn chương giờ tới đâu nhưng tôi tin các em sẽ lớn lên bằng những khát vọng làm đẹp cuộc sống này. Câu lạc bộ Văn học Thành đoàn sau lứa chúng tôi còn hoạt động một thời gian nữa, và có lẽ chính môi trường Huế có một lớp viết trẻ, sau này đứng được trong lòng bạn đọc dù viết báo hay viết văn như Phạm Xuân Hùng (Từ Dạ Thảo), Trần Tuấn, Lê Đức Dục, Minh Tự, Hồ Đăng Thanh Ngọc, Ngô Thiên Thu, Lê Trung Việt, Phạm Nguyên Tường...

Lứa chúng tôi ngày ấy hẳn ai nấy đều sợ viết hồi ký bởi viết hồi ký là chấp nhận mình đã già. Mãi nhiều năm về sau và hiện tại chúng tôi vẫn thấy mình đương rất trẻ, ít nhất là trong những suy nghĩ về việc làm mới văn chương. Nhớ về những năm tháng ấy, tôi còn nhớ một đoạn thơ trong bài Mai có hòa bình của thi sĩ Ngô Kha được phổ nhạc, anh Lượng hát những lần gặp mặt anh em:

“...Tin em trao về hồng như nụ chín
Mai có hoà bình khác thể yêu đương
Đường dù ngại đi rừng chen lớp lớp
Nhớ nhau thì về cho kịp trời thu

Trời có tơ đan nắng hanh vườn cũ
Áo thô bạc màu hẹn buổi vinh quy
Chim vỗ cánh bay theo đàn tình tự
Xứ mẹ con về góp hội trùng tu”

Với tôi, nhiều khi khát vọng sáng tạo như cánh chim phượng hoàng huyền thoại vẫn đập cồn cào trong tàn tro để mong được tái sinh.

P.T.Đ
(267/5-11)






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM TRƯỜNG THI  

    Trong số các nhà thơ thời tiền chiến người quê gốc Nam Định, có ba nhà thơ mặc dù khác nhau là không được sinh ra cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, cùng một miền đất nhưng họ lại rất giống nhau là đều khóc tiếng khóc chào đời nơi vùng đồng chiêm trũng, nghĩa là nơi được xem là những cái rốn nước của tỉnh Nam Định.

  • HỒ HUY SƠN  

    Năm 2019, văn đàn Việt chứng kiến một cuộc chuyển giao trong đời sống văn học trẻ nước nhà. Thế hệ 8X vẫn cần mẫn viết nhưng có xu hướng trở nên lặng lẽ hơn; trong khi đó, thế hệ 9X lại đang có một sức bật không kém phần táo bạo, bất ngờ. Bài viết dưới đây nằm trong sự quan sát mang tính cá nhân, với mong muốn đưa đến người đọc những nét nổi bật trong năm qua của văn chương trẻ.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trong mấy thập niên gần đây, cái tên Nguyễn Thị Thanh Xuân không còn xa lạ với độc giả trong cả nước.

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH  

    Trong một tiểu luận bàn về Ngoại biên hóa trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại, học giả Trần Đình Sử xem “ngoại biên hóa chủ yếu là phương thức tồn tại thông thường của văn học”.

  • HỒ THẾ HÀ

    Mấy mươi năm cầm bút đi kháng chiến, Hải Bằng chỉ vỏn vẹn có 1 tập thơ in chung Hát về ngọn lửa (1980) ra mắt bạn đọc.

  • LÝ HOÀI THU    

    Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi.

  • LÝ HOÀI THU    

    Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi. 

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH  

    Trong thế hệ những nhà văn tuổi Canh Tý đương thời (sinh năm 1960), Hồ Anh Thái chiếm lĩnh một vị trí nổi bật. Càng đặc biệt hơn khi hình ảnh con chuột từng trở thành biểu tượng trung tâm trong văn chương ông. Nhân dịp Tết Nguyên đán Canh Tý (2020), hãy cùng nhìn lại cuốn tiểu thuyết được ông viết cách đây gần một thập kỷ.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO

    • Để chọn được những áng thơ hay, những người thơ có tài, người ta thường mở các cuộc thi, và cuối cùng là giải thưởng được trao.

  • PHẠM XUÂN DŨNG

    Nhà thơ Tố Hữu là người xứ Huế nhưng lại có nhiều duyên nợ với Quảng Trị, nhất là đoạn đời trai trẻ, đặc biệt là với địa danh Lao Bảo.

  • TRẦN THÙY MAI  

    Đọc tập sách của Nguyễn Khoa Diệu Hà, với hơn 30 tản văn, tôi có cái cảm giác như đang ngồi trên tấm thảm thần Aladin bay về một miền mà không có xe tàu nào đưa ta đến được một miền thương nhớ đặc biệt “Ở xứ mưa không buồn”!

  • NGUYỄN QUANG THIỀU  

    Có không ít các nhà thơ lâu nay coi sứ mệnh của thơ ca không phải là viết trực diện về những gì đang xẩy ra trong đời sống con người.

  • VŨ VĂN     

    Một mùa xuân nữa lại về, mùa xuân của hòa bình, của ấm no và những đổi thay của đất nước. Nhưng đã có thời kỳ, những mùa xuân của dân tộc đến vào những lúc chiến tranh vô cùng gian khổ, trong lòng nhiều người từng sống qua những năm tháng ấy lại dâng lên niềm thương nhớ Bác, nhớ giọng nói của Người, nhớ những lời chúc Tết của Người vang lên trên loa phát thanh mỗi đêm Giao thừa.

  • ĐỖ QUYÊN  

    1.
    Du Tử Lê
    thường được xem là một trong bảy nhà thơ hàng đầu của nền văn học miền Nam Việt Nam trước năm 1975, cùng với Bùi Giáng, Vũ Hoàng Chương, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Đinh Hùng, và Nguyên Sa. Cây thơ cuối cùng ấy đã hết còn lá xanh giữa mùa thu này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ    

    (Nhân đọc các tập truyện của Trần Bảo Định vừa được xuất bản)

  • LƯU KHÁNH THƠ   

    Giai đoạn giao thời ba mươi năm đầu thế kỷ XX đã chứng kiến sự thay đổi vị trí xã hội của người phụ nữ. Từ “chốn phòng the”, một số người phụ nữ có tri thức và tư tưởng tiến bộ đã mạnh dạn vươn ra ngoài xã hội, bộc lộ suy nghĩ, chủ kiến riêng và thể hiện con người cá nhân của mình.

  • PHẠM PHÚ PHONG    

    Trong vô tận (Nxb. Trẻ, 2019) là cuốn sách thứ mười ba và là tiểu thuyết thứ tư của nhà văn Vĩnh Quyền.

  • HOÀNG THỤY ANH

    “Đá”(1) là tập thơ thứ 5 của tác giả Đỗ Thành Đồng. Điểm xuyết, vấn vương một chút dáng dấp của “Rác”, “Rỗng”, “Xác”(2), nhưng thần thái của “Đá” đã khác.

  • ĐÔNG HÀ

    Mỗi dân tộc có một số phận lịch sử. Và lịch sử chưa bao giờ công bằng với dân tộc Việt chúng ta, khi trải qua hơn bốn ngàn năm, luôn phải đặt số phận con dân dưới cuộc chiến. Vì vậy, để viết nên trang sử nước nhà, không chỉ những chính sử gia, mà các nhà văn, nhà thơ, người cầm bút, không tránh chạm ngòi bút của mình vào nỗi đau của dân tộc.