DA VÀNG
(Đọc tập thơ Tùng Gai của Bạch Diệp, Nhà xuất bản Văn Học, 8/2014)
Chúng ta đều biết tiếng khóc của một đứa trẻ mới chào đời, như một điều tiên quyết tất yếu để tồn tại và tiếp bước trong khoảng thời gian tiếp nối. Phải chăng, đó là tiếng gọi trong veo đầu tiên được bột phát ra từ nhịp đập trái tim mà sau này chúng ta gọi tên là cảm xúc.
Bài thơ đầu tiên được khai sinh không khác mấy với sự ra đời của mỗi chúng ta. Tất cả là ở nền tảng: cảm xúc. Trong một bài thơ, ngoài những hình thức biểu hiện, cảm xúc luôn luôn đóng vai trò chính yếu. Chính vì vậy mà không có ranh giới giữa thi nhân và bài thơ.
Thật ra, sự khai sinh một bài thơ là cả quá trình vận hành của cảm xúc. Khi chúng ta sử dụng ngôn từ để diễn đạt chính là thời khắc bài thơ đã bị bức tử phần nào. Chính sự diễn ngôn sẽ thể hiện tài năng của nhà thơ và tạo nên nghệ thuật thi ca. Chỉ bằng hai câu thơ trong bài “Bên kia cánh đồng”: Mặt trời chảy máu trên những cánh đồng/ Lắng nghe sự im lặng của đêm chuyển thành màu trắng, tác giả đã bày biện một không gian siêu thực, khi đối diện với sự im lặng của bóng tối đang dần chuyển sang sự tuyệt vọng, hé lộ nỗi cô đơn của kiếp người trước bức màn hư vô qua một dải màu, từ nóng sang lạnh: màu máu của mặt trời, màu của bụi đất, màu đen của đêm và màu trắng của sự trở về.
Trong bài “Ngày chủ nhật” với những câu thơ rất kiệm chữ:
...
Ngày lên giây hết cỡ
Chật
Dâng đầy lên ngực
Chuông nhà thờ chặt khúc thời gian
Sao ta lại ở đây
Không có ổ khóa bằng đồng
Cứ viết đi viết lại như lời lải nhải của kẻ mất trí
Lục bới nữa làm gì
Thời gian cày xới nát nhừ những giấc mơ
...
Tác giả đã dẫn đưa người đọc rơi vào không gian liên tưởng về nỗi ám ảnh thời gian trong cuộc sống này. Nơi đó là cuộc chạy đua với chiếc đồng hồ, âm thanh hối hả thúc giục của tiếng chuông nhà thờ... và những ngạc nhiên thường trực về sự tồn tại của phận người sau bức tường luẩn quẩn, mà tác giả đã ngộ ra và muốn vượt qua cái lằn ranh đang đóng khung và giam giữ giấc mơ của con người thi ca.
Trong tập thơ của Bạch Diệp, ẩn đằng sau mỗi câu chữ là một gương mặt buồn, một nỗi buồn mang tên loài hoa trắng lung linh dưới ánh chiều tà. Ở đó là một giếng nước trong veo còn sót lại trong những kinh thành cổ, mà mỗi đêm người thơ đều ngắm nhìn chiếc bóng mình lấp lánh cùng ánh trăng hoang liêu.
Tôi như lạc vào câu chuyện ngụ ngôn hiện đại, khi những bài thơ cứ dẫn dắt người đọc về những con đường xa hun hút, để rồi khi bước chân cuối cùng ngỡ đã chạm đến đích, thì sự bất ngờ lại đưa chúng ta đến con đường mới. Có thể đây là điều chủ ý của tác giả khi đã làm chủ được nguồn mạch thi ca đang luân chuyển trong tâm hồn. Cứ thế, tác giả chỉ việc tạo ra những con sông, những luồng lạch,… để dòng nước ngang qua những cõi miền rồi hòa vào biển khơi.
Nhạc tính trong thơ Bạch Diệp ngoài những âm vực rất riêng qua nhịp đập của ngôn từ, còn được biểu hiện bằng hình ảnh. Mà điều chính yếu của hình ảnh trong thơ Bạch Diệp là các sắc màu… Chúng ta hãy thể nhập vào thế giới màu sắc của tác giả, để cảm nhận vòng mi của trời đất đang khép lại:
Ở đó màu trời màu nước màu mây
hoàng hôn và bình minh loang chảy
Vệt sáng đường chân trời như vòng mi khép
Biển duỗi phơi trăng...
Có thể hình dung sắc vàng của cánh rừng ngập tràn lá phong thu, ẩn trong xa hút của nỗi hanh vàng đó lấm tấm những hạt châu hay những vành môi màu rượu nho từ những bức tranh cổ điển. Rồi những khoảng chiều xanh lam mơ hồ cứ lướt qua ô cửa, khiến nàng đánh rơi những ngón tay trên phím dương cầm, ru khúc nhạc buồn Sopanh đi vào vĩnh cửu.
Cần phải nhắc lại, hình thức bên ngoài của một bài thơ, cái gọi là nghệ thuật thi ca, là sự cách tân, siêu thực, tân hình thức, là hậu hiện đại, siêu hư cấu,… hay là một nhãn hiệu nào khác, cũng không thể thiếu vắng khuôn mặt đích thực của nó chính là cảm xúc. Cảm xúc làm nên thế giới thi ca và khiến cho sự thiêng liêng của thơ bước vào cánh cửa huyền linh mà các nghệ thuật khác chỉ dạo bước bên ngoài.
Thơ - có thể không phải là câu chữ, có thể chỉ dành cho một số rất ít. Điều đáng nói đã được tác giả diễn ngôn và thi ca là những gì còn lại phía bên trong mỗi tâm hồn, như một sự khải huyền của thế giới khác trao gửi chúng ta. Trong ý nghĩa đó, Bạch Diệp đã tiếp nhận âm hưởng của thi ca từ bên ngoài rào cản duy lý, để ngôn từ của tác giả hòa cùng nhịp đập trái tim.
D.V
(SDB15/12-14)
ĐẶNG TIẾN
Đầu đề này mượn nguyên một câu thơ Nguyễn Đình Thi, thích nghi cho một bài báo Xuân lấy hạnh phúc làm đối tượng.
NGUYỄN HIỆP
Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?
NGUYỄN HIỆP
Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?
LƯƠNG THÌN
Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.
VƯƠNG TRỌNG
Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).
NHỤY NGUYÊN
Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.
LÊ THỊ BÍCH HỒNG
Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).
THÁI KIM LAN
Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
HOÀI NAM
Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.
ĐỖ LAI THÚY
Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.
TRẦN NHUẬN MINH
Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).
YẾN THANH
“vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
ngọn lửa phù du mách bảo
vui buồn tương hợp cùng đau”
(Hồ Thế Hà)
Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.
NGÔ THẢO
Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.
Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).
NGÔ ĐÌNH HẢI
Tôi gọi đó là nợ. Món nợ của hòn sỏi nhỏ Triệu Từ Truyền, trót mang trên người giọt nước mắt ta bà của văn chương.
NGÔ MINH
Nhà thơ Mai Văn Hoan vừa cho ra mắt tập thơ mới Quân vương &Thiếp (Nxb. Thuận Hóa, 6/2015). Đây là tập “thơ đối đáp” giữa hai người đồng tác giả Mai Văn Hoan - Lãng Du.
DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN
Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.
NGUYỄN HIỆP
Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.
Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.