Nhịp đập của một trái tim nhiều trăn trở

09:36 16/09/2008
MAI VĂN HOAN     Nhà xuất bản Văn học vừa ấn hành tập thơ Cõi lặng của Nguyễn Khoa Điềm. Cõi lặng gồm 56 bài, đa phần được viết sau khi tác giả nghỉ hưu. Điều đó cũng là lẽ thường. Các nhà thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến... đều như thế cả. Khi đương chức họ bận trăm công nghìn việc. Phải đến lúc nghỉ hưu họ mới sống thoải mái hơn, dành nhiều thời gian cho thơ hơn. Đọc Cõi lặng ta mới thấu hiểu tâm trạng của nhà thơ, mới nghe được nhịp đập của một trái tim nhiều trăn trở.

Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ tài năng. Điều đó đã được công chúng thừa nhận. Chương “Đất nước” trong trường ca Mặt đường khát vọngKhúc hát ru những em bé trên lưng mẹ của anh đã đi vào tâm thức của nhiều thế hệ học sinh, sinh viên. Với Cõi lặng một lần nữa Nguyễn Khoa Điềm lại thu hút được sự chú ý của độc giả. Chỉ vài bài thơ trong Cõi lặng vừa được công bố mọi người đã bàn tán xôn xao. Khen có, chê có, suy diễn, chụp mũ có... Riêng bài Bây giờ là lúc... tôi nghe và đọc nhiều lời bàn, lời bình trái ngược nhau một cách công khai, thẳng thắn. Đó là dấu hiệu đáng mừng trong việc tiếp nhận văn chương hiện nay. Tôi thuộc tạng người không ưa cái kiểu thơ bị văn xuôi hoá. Tôi quan niệm thơ là thơ, văn xuôi là văn xuôi. Không có thơ văn xuôi. Nhà thơ có thể sử dụng yếu tố tự sự và yếu tố tự sự này khi đưa vào thơ cũng phải được thơ hoá. Trong Cõi lặng những câu đại loại như: Người ơi, tôi yêu người tha thiết/ Tôi sống vì người, chết vì người (Cõi lặng); ...Hà Nội thì thầm nghìn năm tuổi/ Mừng Đảng qua một mùa đại hội (Tháng tư); ...Bây giờ con cái nhà bác đi khắp nước/ Họ Dương lắm con, lắm vợ, lắm chồng/ Ô tô, xe máy (Uống rượu với bác Dương Văn Vượng)... theo tôi là ít chất thơ, là đã phần nào bị văn xuôi hoá. Bởi vậy, cái lối viết theo kiểu văn xuôi hoá ở Bây giờ là lúc tôi không thích lắm nhưng có một câu trong bài thơ ấy tôi rất nể phục. Đó là câu “Từ giã cà - vạt, giày đen, lời trịnh trọng”. Các nhà thơ phần lớn thích cuộc sống phóng túng và tự nhiên. Phải luôn đeo cà - vạt, mang giày đen, nói những lời trịnh trọng là vạn bất đắc dĩ. Câu này vừa đúng với nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nếu nhà thơ nào từng dấn bước trên con đường hoạn lộ mà không cảm thấy tù túng, gò bó, mất tự nhiên thì quả là sự lạ. Nguyễn Du cho cái nhục của những kẻ làm quan dưới thời phong kiến là “vào luồn, ra cúi” còn Nguyễn Công Trứ thì tự trào “Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng”. Nói chung làm quan thời nào cũng đều bị ràng buộc bởi rất nhiều sợi dây vô hình.

Ngay khi đang đương chức, Nguyễn Khoa Điềm đã hé lộ cho ta thấy trái tim đa cảm và nhiều trăn trở của anh. Vào dịp cuối năm 1997, anh hẹn với người thân sẽ về quê ăn tết. Vì bận việc đột xuất nên đành lỡ hẹn, Nguyễn Khoa Điềm đã viết những vần thơ tạ lỗi với quê hương, gia đình: Đã lâu anh chưa về Huế/ Hẹn vào thu rồi lỡ cả mùa đông/ Anh mải miết trên đường hoạn lộ/ Ngảnh về quê hư ảo một vầng trăng... (Viết cuối năm). Đọc những dòng bộc bạch chân thành này khiến tôi sực nhớ hai câu thơ nổi tiếng của Cao Bá Quát: “Phong tiền tửu điếm hữu mĩ tửu/ Tỉnh giả thường thiểu, tuý giả đồng” (Sa hành đoản ca). Nhà thơ Tố Hữu dịch: Đầu gió hơi men thơm quán rựợu/ Người say vô số, tỉnh bao người? Bao nhiêu người “mải miết trên đường hoạn lộ” có được mấy ai nuối tiếc thành tâm như Nguyễn Khoa Điềm? Trước đó hai năm (24 - 1 - 1995), anh tiễn biệt Phùng Quán bằng bài thơ Người nằm bên Hồ Tây với một câu hỏi đầy day dứt: Cuộc viễn du nào buồn đến vậy/ Người hùng thời niên thiếu của tôi ơi? Điệp khúc ấy cứ láy đi, láy lại trong suốt bài thơ. Năm 2000, Nguyễn Khoa Điềm có bài thơ khá hay tặng Đồng Đức Bốn. Đây là hai câu mở đầu: Bạn chừ đóng gạch nơi nao?/ Văn chương lấm láp, vêu vao mặt người (Bạn thơ). Không có một tình bạn chân thành, không băn khoăn trăn trở không thể viết được câu thơ cảm động mà bình dị đến như thế. Bất ngờ nhất là bài thơ Hoa quỳ vàng, Nguyễn Khoa Điềm viết bài thơ này vào năm 1993, khi chia tay thành phố Đà Lạt. Tôi xem Hoa quỳ vàng là một trong những bài thơ tình hay của thơ ca hiện đại Việt . Nếu là nhạc sĩ, tôi sẽ chọn phổ Hoa quỳ vàng. Nhịp điệu bài thơ cứ tuôn trào một cách tự nhiên với bao day dứt, tiếc nuối: ...Em thanh xuân/ Anh quá đỗi/ Ngại ngùng/ Sương với gió/ Đượm buồn/ Từng tấc cỏ/ Đà Lạt/ Anh có gì/ Để nhớ/ Sao âm thầm/ Lưu luyến/ Tới muôn xưa... Lời thơ đẹp, dịu dàng, êm ái chẳng khác gì ca từ của Trịnh Công Sơn.

Đọc kỹ Cõi lặng, lần theo dấu vết thời gian, tôi nhận thấy năm 2004 là năm Nguyễn Khoa Điềm có nhiều băn khoăn, trăn trở nhất. Tôi ít để ý đến chuyện chính trường nên không biết một cách cụ thể điều gì đã làm anh buồn đến như vậy, bức xúc đến như vậy, trăn trở đến như vậy? Anh luôn tự vấn: Vì sao không thể yêu mến hơn?/ Vì sao không xanh tươi hơn? Vì sao không trong sạch hơn? (Trong những buổi chiều); Ai chờ đợi anh/ Tin tưởng anh, nuôi dưỡng niềm hy vọng?/ Ai sau lá, sau cây, sau mưa, sau núi xanh/ Ai cho anh lòng tốt,/ Cõi sáng? (Có một nỗi buồn); Mãi khi giữa đêm chợt thức/ Bập bềnh ý nghĩ xót xa/ Anh còn có thể, không thể?... (Hy vọng). Đến tháng 7, năm 2006, Nguyễn Khoa Điềm viết Hy vọng 2 với “nỗi buồn thăm thẳm”. Và mặc dù đối diện trước một “kết cục bụi bặm”, anh vẫn “hy vọng vào lòng tốt”. Anh khẳng định: Chỉ có lòng tốt/ Dìu anh đến cuối đời này/ Để gặp hạnh phúc... Thử hỏi có ai trong cả cuộc đời mình mà không từng trải qua những “kết cục bụi bặm”, không từng gặp những “trận gió rát”? Vấn đề là phải vượt qua nó như thế nào. Đến bài thơ Bây giờ là lúc mọi thứ đã trở nên nhẹ nhàng hơn, thanh thản hơn: Bây giờ gió gọi anh đi/ Mặt trời đánh nhịp về tám hướng... Sau khi nghỉ hưu, anh trở về Vĩ Dạ, đi xe đạp, ngồi quán cóc, tắm bến Hà Khê... Nhà thơ bước chậm rãi theo gót những người nông dân trên cánh đồng: Mặc cho ngôi sao hôm xa ngái dẫn đường/ Thăm thẳm ngõ quê rơm rạ/ Trái tim lăn tròn êm ả (Cánh đồng buổi chiều). Nguyễn Khoa Điềm bắt đầu “tập thiền”, “làm một người trắng nợ” và “thong dong”: Đặt hai chân lên nền nhà cũ/ Trên môi chàng luôn phảng phất một điệu boléo/ Chàng sẽ huýt lên khi bước vào cõi chết (Có một chàng trai). Điều làm cho anh băn khoăn, trăn trở bây giờ là có những chuyện không hay vẫn ngang nhiên tồn tại trong xã hội tốt đẹp của chúng ta. Chẳng hạn như sự hung bạo: Hung bạo trên mạng, trên sàn diễn, trong lớp học/ Hung bạo giữa bàn nhậu, cửa sau công sở, hung bạo đường phố/ Hung bạo văn chương, tố giác nặc danh/ Lạng lách thời thượng và sành điệu... (Nghe tin hai nhà khoa học bị tai nạn xe máy). Chẳng hạn như nạn tham nhũng, phá rừng, tống tiền, trộm cắp... Đây là hình ảnh đường dây cáp quang bị cắt khúc rao bán: Trên mặt báo chúng giống hệt những con cá chết/ Giương mắt trừng trừng nhìn thế gian... (Cáp quang).

Điều làm nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm luôn hoài niệm là những hồi ức thời chiến tranh, là nỗi nhớ đồng chí, đồng đội: Những đồng đội ngã như thân cây chuối/ Những xác người xếp dọc đường hành quân/ Những thành phố đổ nát/ Chất da cam mù mịt cánh rừng... (40 năm gặp lại); Những chiều trên ngọn núi lồng lộng cuối đường/ Chợt hiện một lối mòn thời chiến tranh/ Với những người lính mang tuổi xuân đi mãi.../ Tôi khẽ gọi qua hoàng thành mười cửa/ Người hôm nào, người hôm ấy ơi! (Định vị); Bạn cũ đến chơi/ Chép miệng sống cũng tạm được/ Phải cái hơi móm/ Cười trống trơ như Đỗ Phủ/ Nhìn nhau thương con mắt/ Còn lung lay ngọn lửa rừng/ Thời bom đạn (Về quê đón tết). Cảm động nhất là bài thơ anh viết về liệt sĩ Đặng Thùy Trâm: Ngồi lại nghe chị nói gì trong đất/ Cùng cây giang, cây dẻ của ngày xưa/ Chiếc hầm cũ đau như tròng mắt/ Nhìn vào ta thăm thẳm, bơ vơ (Ngày về). Và như thế là cho dù đang ở trong Cõi lặng nhưng trái tim đa cảm của nhà thơ vẫn luôn thao thức, trăn trở.
 
Tôi đã đọc Cõi lặng như con bò đứng gặm cỏ bên sông trong bài thơ Cỏ ngọt: Chậm rãi/ Một ít bóng đêm và ít hạt bình minh/ Từng miếng một, nhai và thở. Tôi “không nghe tiếng người, tiếng xe cộ lại qua” mà chỉ nghe thấy “vị ngọt từng cọng cỏ”. Tôi ngửi thấy trong Cõi lặng “mùi bất chợt của cỏ dại”, “chút ẩm ướt của thời gian”. Và tôi hy vọng như nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm từng Hy vọng: Thăm thẳm ngày xưa bình an/ Vời vợi ngày mai chói nắng...
                                                                                                            M.V.H

(nguồn: TCSH số 227 - 01 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.