PHAN NGỌC THU
Cùng với văn học cả nước, hiện nay, văn học ở mỗi vùng đất cũng đang đứng trước yêu cầu lớn lao của công cuộc đổi mới.
Ảnh: internet
Trong không khí chuẩn bị các đại hội văn nghệ, việc nhìn lại một cách trung thực tình hình sáng tác ở từng địa phương, nhận ra những vấn đề vướng mắc tháo gỡ để đánh thức tiềm năng sáng tạo và đổi mới không ngừng vốn là bản chất của nghệ thuật là hết sức cần thiết, góp phần tạo nên chuyển biến chung nhằm làm cho văn học chúng ta vươn đến những thành tựu mới. Tất nhiên, công việc ấy không dễ dàng, có thể có những ý kiến khác nhau cần trao đổi, bàn luận. Dưới đây chỉ nêu một vài suy nghĩ bước đầu khi nhìn lại Văn học Bình Trị Thiên từ sau Đại hội Văn nghệ toàn tỉnh lần thứ II (1983) đến nay.
***
Trước hết, có thể nhận thấy một tình hình chung là từ năm 1975 đến đầu những năm 80 "hát trong ngày vui đoàn tụ" của đất nước, quê hương, văn học Bình Trị Thiên đã đoàn kết tập hợp lực lượng từ nhiều nguồn, phát huy truyền thống của văn học hai cuộc kháng chiến và đã thu được những thành quả bước đầu. Đại hội văn nghệ toàn tỉnh lần thứ II, giải thưởng văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên lần thứ I đã ghi nhận điều ấy. Và, từ đó đến nay, trong qui luật vận động chung của văn học cả nước, văn học Bình Trị Thiên ngày càng đứng trước những yêu cầu mới do cuộc sống bề bộn và phức tạp đặt ra. Lực lượng sáng tác văn học tỉnh nhà mà nòng cốt là Chi hội nhà văn Việt Nam đã có những cố gắng mới đáng ghi nhận. Phong trào sáng tác và sinh hoạt văn học vẫn được duy trì khá sôi nổi ở thành phố Huế và một số huyện thị như Đồng Hới, Bến Hải, Đông Hà... số lượng tác phẩm bao gồm nhiều thể loại gia tăng hơn hẳn các giai đoạn trước, chỉ làm phép thống kê sơ bộ, 5 năm gần đây, chúng ta đã có hơn 50 đầu sách được các nhà xuất bản ở Trung ương và địa phương ấn hành (trong đó có khoảng 35 tập văn xuôi, 15 tập thơ).. Ngoài ra còn có hàng trăm bài thơ, truyện ngắn, ký, trích tiểu thuyết... được giới thiệu trên tạp chí Sông Hương, trên các sách báo của Trung ương và nhiều địa phương khác.
Từ trong phong trào, bên cạnh lớp nhà văn nhà thơ xuất hiện và trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến, đã hình thành một lớp người viết trẻ đầy triển vọng. Họ có thể là những người đã từng làm quen với bạn đọc ở giai đoạn trước đến nay sáng tác mới được góp lại in riêng thành tập. Cũng có người còn rất trẻ vừa mới được giới thiệu qua những trang viết đầu tay. Mỗi người một vẻ nhưng hình như họ đều có chung một đặc điểm đáng quí, đó là đầy tự tin, không muốn và cũng không chịu đi theo một lối mòn nào. Nên chăng, có thể coi việc xuất bản các tập sách của Trần Thùy Mai, Ngô Minh, Thái Ngọc San, Vĩnh Nguyên, Nguyễn Quang Lập, Hải Kỳ, Lý Hoài Xuân, Nguyễn Quang Vinh... và của nhóm sáng tác Câu lạc bộ Thành Đoàn Huế, là một nét nổi bật đáng vui mừng trong đời sống văn học tỉnh ta thời gian qua.
Mặt khác, nếu có dịp đọc kỹ các tác phẩm đã xuất bản, dự những cuộc sinh hoạt văn nghệ hoặc theo dõi đều đặn tạp chí Sông Hương, chúng ta cũng có thể thấy được những dấu hiệu chuyển biến khá rõ về chất lượng sáng tác của từng thể loại, của một số tác giả và của phong trào. Từ cảm hứng sử thi, bước vào những năm tám mươi, nhất là mấy năm gần đây văn xuôi Bình Trị Thiên đã bắt đầu dấy lên cảm hứng về sự thật. Các nhà văn quen thuộc ở những mức độ khác nhau đều có những đổi mới trong cách nhìn, cách nghĩ, cách tiếp cận với đời sống. Tiểu thuyết "Ngoại ô" của Tô Nhuận Vỹ, "Miền xa kêu gọi", "Những cánh cửa đã mở"... của Nguyễn Khắc Phê, tập truyện ngắn "Là bóng hay là hình" của Hà Khánh Linh, nhiều bài ký của Nguyễn Quang Hà... đều đã mở rộng và chiếm lĩnh thêm những bình diện mới của hiện thực. Trong các tác phẩm ấy, cuộc sống không còn diễn ra một chiều theo kiểu "ở hiền gặp lành", "ta thắng địch thua" như trước, mà đã gay cấn hơn, nhiều vẻ hơn. Qua bức tranh của một xóm nhỏ - chân đồi ở vùng "Ngoại ô" ít nhất cũng giúp cho người đọc cảm nhận được những vấn đề khó khăn phức tạp đặt ra với một thành phố sau ngày giải phóng. Ở đó mỗi số phận, mỗi cuộc đời nhân vật có khi còn bỡ ngỡ trước niềm vui chưa đủ sức vượt qua nỗi đau giằng xé của bóng hình quá khứ, lại gặp những điều bất hạnh khác khi cuộc sống còn không ít hiện tượng tiêu cực và đầy rẫy những khó khăn. Cũng nhạy cảm với thực tế ấy, có tác giả đã sớm đặt ra vấn đề "tác dụng tích cực của cái tiêu cực trong tác phẩm văn nghệ", mạnh dạn phê phán với chiều sâu lý giải những sai lầm trong tổ chức, chỉ đạo và thực hiện do những căn bệnh dốt nát, quan liêu, cửa quyền của một số kẻ có chức, có quyền; thức tỉnh sự quan tâm đến tài năng, trí tuệ và phẩm giá con người trong xã hội chúng ta. Xu hướng nhìn thẳng vào sự thật (cả những sự thật đau lòng như một vùng quê cách mạng bị bỏ rơi trong bài ký "Luận chứng của một tâm hồn đa cảm" của Nguyễn Quang Hà), tường trần sự việc như nó vốn có qua một số truyện ngắn, bút ký... trên tạp chí Sông Hương đã thu hút được sự chú ý của bạn đọc. Ngay cả những tác phẩm trong dòng sử thi, thiên hướng về phía ngợi ca, khẳng định cái đẹp như một giá trị sâu thẳm của hiện thực - tập bút ký "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường, thì chất trữ tình trầm tư của nó cũng góp phần tạo nên chất đề kháng, níu kéo con người trước cuộc sống còn rất đỗi ngổn ngang như hiện nay.
Tuy chuyển động chưa kịp thời bằng văn xuôi song vẫn có thể thấy được các nhà thơ Bình Trị Thiên đã cố gắng không ngừng tìm tòi, trăn trở với mong muốn đổi mới tư duy thơ. Các tập thơ "Quãng cách lặng im" của Xuân Hoàng, "Ngôi nhà có ngọn lửa ấm" của Nguyễn Khoa Điềm, "Bài thơ không năm tháng" của Lâm Thị Mỹ Dạ, "Gửi những ngọn sóng" của Hoàng Vũ Thuật... vừa xuất bản mấy năm gần đây, ở những mức độ khác nhau đều hướng nội hơn, sâu lắng và phức điệu hơn, gợi cho bạn đọc nhiều xúc cảm, suy tư về cuộc đời và nhân tình thế thái. Tập thơ của Hải Bằng sắp ra mắt bạn đọc, nhiều bài thơ của Lê Thị Mây sau "Những mùa trăng mong chờ" cũng trong xu hướng chuyển mình ấy.
Điều đáng ghi nhận trong thành tựu của văn học Bình Trị Thiên 5 năm gần đây không chỉ thể hiện qua những cố gắng mới của lực lượng sáng tác chuyên nghiệp mà đặc biệt có sự đóng góp tích cực của nhiều cây bút trẻ. Như trên đã nói, lớp trẻ bây giờ vừa học tập kế thừa người đi trước, vừa không muốn và không chịu đi theo một lối mòn nào; họ đầy tự tin nên tác phẩm đầu tay của họ sớm có được bản sắc. Dư luận bạn đọc trong tỉnh và cả trong nước chú ý nhiều đến hai tập truyện ngắn "Bài thơ về biển khơi"(1) của Trần Thùy Mai và "Một giờ trước lúc rạng sáng"(2) của Nguyễn Quang Lập. Một người với lối hành văn trong sáng, chuẩn mực mà không kém phần duyên dáng hướng truyện ngắn của mình vào những việc tưởng chừng như rất nhỏ trong đời sống hàng ngày nhằm thức tỉnh người đọc suy ngẫm về xã hội, về lối sống và những hành vi đạo đức cần phải có. Một người với cách viết dữ dằn khai thác đề tài chiến tranh từ những chuyện còn sót lại, những dư vang của nó. Ở những truyện ngắn thành công của Nguyễn Quang Lập, người có cảm tưởng là hình như không có chuyện gì thật xác thực, thật rõ ràng nhưng lại có sức khêu gợi và ám ảnh sâu xa bởi cuộc đời và số phận của từng nhân vật.
Thơ của lực lượng trẻ cũng có được nhiều giọng khác nhau. Ngô Minh có cái nhìn vừa trẻ trung đầy đam mê vừa từng trải khi phát hiện những phía nắng lên của cuộc đời với những vần thơ da diết về quê hương, bè bạn. Thái Ngọc San có cách nói lúc thì cô đúc như khẩu hiệu, lúc thì muốn đập vỡ ra như để xem trong đó có thêm gì qua những trang thơ, trang văn giàu "khát vọng"(3). Hải Kỳ với nét bút nhiều khi tưởng như bất ngờ nhưng tài hoa và quấn quýt tình cảm theo "Ngọn gió đi tìm" kỷ niệm. Lý Hoài Xuân đằm thắm dân giã mà không ít mộng mơ với "Những đám mây mùa hạ"... Đó là chưa kể đến những người làm thơ đã có bản sắc và độ dày nhưng chưa được in thành tập như Vĩnh Nguyên, Trần Vàng Sao, Hồng Thế, Phạm Tấn Hầu...
Hòa trong phong trào sáng tác được duy trì và không ngừng phát triển ấy một số tác giả hình như muốn "trẻ hóa" sức viết của mình qua việc thử sức ở những thể loại mới. Lê Thị Mây - nhà thơ vừa có tập truyện ngắn "Trăng trên cát", Vĩnh Nguyên chưa được in thơ thành tập đã chịu khó lăn lộn để có tập truyện ký "Theo thuyền đi đánh cá mập". Lâm Thị Mỹ Dạ cùng Văn Lợi viết truyện "Phần thưởng muôn đời" cho thiếu nhi. Riêng Văn Lợi còn có thêm nhiều truyện ngụ ngôn vừa thông minh hóm hỉnh vừa đả kích thâm thúy vào những thói hư tật xấu trong xã hội một cách hưởng ứng "những việc cần làm ngay". Trong hoàn cảnh đời sống còn muôn vàn khó khăn, việc vật lộn để có được từng trang viết lại càng không phải dễ dàng; tất cả những biểu hiện ấy đều rất đáng trân trọng và khích lệ.
Tuy nhiên, với tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, trước yêu cầu lớn lao của công cuộc đổi mới, đã đến lúc văn học không chỉ tìm hiểu, khám phá, nhận thức và cải tạo đời sống mà còn phải tự nhận thức và đổi mới chính bản thân mình. Từ tình hình thực tiễn sáng tác của một vùng đất vốn có chiều dày lịch sử và văn hóa, chúng ta cần nhận rõ hơn những việc chưa làm được, những vần đề cần đặt ra để tháo gỡ nhằm góp phần thúc đẩy văn học cả nước phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
Xưa nay, một qui luật khắt khe của sáng tác văn học là vừa tôn trọng sự phong phú, đa dạng vừa "quí hồ tinh bất quí hồ đa"...Nhìn lại văn học trên địa bàn tỉnh ta những năm vừa qua, chúng ta đã có một số lượng tác phẩm và trang viết quá nhiều, nhưng lại có một sự thật là những trang viết hay, những tác phẩm được dư luận chú ý (chưa nói để lại ấn tượng lâu bền trong người đọc) vẫn còn quá ít. Tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa số lượng và chất lượng sáng tác có thể do nhiều nguyên nhân. Thói quen chỉ đạo theo quan niệm đơn giản - "Văn học phục vụ chính trị" của một thời cũng khiến cho nhiều tác phẩm chỉ chạy theo vụ việc, phong trào, sau đó lại rơi vào quên lãng - Cũng có thể do vốn sống, trình độ và tài năng của người cầm bút nhưng chắc chắn còn có một nguyên nhân nữa là nhiều nhà văn, nhà thơ và bạn viết của chúng ta chưa có đủ thời gian và điều kiện để đầu tư cho những tác phẩm dài hơi. Trong cuộc sống chung đầy khó khăn của người lương thiện, người viết văn còn có thêm những cái khổ, cái sợ riêng; thế là đành phải "lấy ngắn nuôi dài" viết theo đơn đặt hàng, "viết theo kiểu tùy thời" để kiếm sống. Rồi cái khó vẫn cứ trì trệ, triền miên, có khi những chuyện tâm huyết đành gửi vào "nung nấu". Lãnh đạo và tổ chức có quan tâm thì cũng "năm thì mười họa" theo chủ nghĩa bình quân. Có nhà văn còn lên tiếng báo động về việc hành chính sự vụ chiếm hết thì giờ dành cho lao động nghệ thuật. Muốn góp phần khắc phục tình trạng trên đây, đã đến lúc cần phải có chương trình kế hoạch xây dựng quỹ sáng tác, tập trung tạo điều kiện, đầu tư thích đáng cho những tác giả thực sự có tài, có đề cương tác phẩm xứng đáng với chiều rộng và chiều sâu của cuộc sống quê hương đang đòi hỏi.
Về chất lượng sáng tác, như trên đã nhận xét, chúng ta đã có thể thấy được những dấu hiệu về sự đổi mới cách nhìn, cách tiếp cận của nhà văn với đời sống. Nhưng, còn không ít những tác phẩm chỉ mới dừng lại ở bề mặt, ở một vài sự việc, hiện tượng - Một điều rất rõ là người viết chưa có điều kiện hoặc chưa đủ can đảm để đi đến tận cùng của hiện thực. Quê hương Bình Trị Thiên, một bức tranh thu nhỏ của hiện thực - đất nước sau ngày thống nhất, với biết bao vấn đề sôi động gay gắt đặt ra. Những truyền thống và những chiến công, những khát vọng và nỗi đau của quần chúng nhân dân trong tỉnh và ngay ở thành phố Huế vẫn chưa có tác phẩm nào nói lên một cách thật xúc động. Suy cho cùng thì nhân vật chính trong bất kỳ tác phẩm văn học nào cũng là nhà văn bởi vì những con người và sự việc khác vào trong tác phẩm đều được lọc qua tâm hồn người viết. Thế mà, trong nhiều tác phẩm nhà văn, nhà thơ vẫn chưa mạnh dạn nói thật hết ý nghĩ và rung động của mình. Do đó, hình tượng nhân dân ở một miền quê trong tác phẩm chưa được khắc họa sâu đậm, nếu không nói là còn mờ nhạt.
Tình hình này có thể thấy được ở các tác phẩm văn xuôi. Khi phê phán một vài hiện tượng tiêu cực (nào đã mùi mẽ gì đâu so với đời sống thực tế) nhưng người viết nếu nói nặng chỗ này thì phải nói khéo lại chỗ khác, cuối cùng chọn cách kết luận theo kiểu "gọt chân cho vừa giày". Ngay cả những tác phẩm được bạn đọc chú ý, nhà văn tưởng như đã nói thẳng vào tên người, tên việc, nhìn thẳng vào những vấn đề xã hội, nhưng rồi đọc kỹ vẫn có thể thấy được đâu là nơi con người viết phải "lách" để né tránh. Cuộc sống thì vẫn trong dòng chảy với bao rác rưởi, bọt bèo. Đọc tác phẩm đến cuối bao giờ cũng sống trong biển lặng nên người ta dễ thấy chán vì không thực.
Nhìn vào thơ Bình Trị Thiên chúng ta vừa gặp những chỗ mạnh chỗ yếu riêng, vừa gặp tình hình chung của thơ cả nước mấy năm trước đây. Đọc trên các sách báo, tạp chí, dự các đêm thơ ở Huế vui mừng thấy người làm thơ và thơ rất nhiều nhưng thơ hay thì vẫn hiếm. Hình như xu hướng thị thành hóa và làm dáng trong thơ hơi nhiều nên thơ vẫn chưa áp sát được đời sống và có ít bạn đọc hơn văn xuôi. Nhiều bài thơ chỉ dừng ở mức cảm xúc đèm đẹp chung chung lặp lại những hình ảnh, tứ thơ đã mòn cũ(4). Không ít những bài khác chỉ mới là ý tưởng chưa được tắm gội trong cảm xúc của hồn thơ nên cũng thiếu đi vẻ đẹp đích thực của con người và thơ ca một vùng đất - Nhìn chung thơ của chúng ta còn chưa đủ sức lắng sâu vào niềm vui, nỗi buồn của mọi người. Giữa lúc cuộc đời hàng ngày còn bao chuyện buồn lo, người ta còn phải "lấy máu mà tin", lấy "lẽ phải để đo điều được mất"(5) mà cảm xúc trong thơ chúng ta nhiều khi lại có phần dễ dãi quá. Trước hoàn cảnh thực tế xã hội hiện nay, thiếu đi sức nặng của "nỗi đau nhân tình" thơ sẽ trở nên xa lạ với người đọc.
Do vậy, trước yêu cầu của cuộc vận động công khai hóa, dân chủ hóa đang diễn ra hiện nay, những người cầm bút khi đã được "cởi trói", lại càng cần phải có bản lĩnh hơn nữa để đối diện với hiện thực. Chỉ có tìm hiểu, khám phá đến tận chiều sâu những vấn đề của con người ở một vùng đất, văn học tỉnh ta mới mang được bản sắc riêng, mới vươn được đến tầm văn học cả nước, mới thoát ra khỏi tình trạng văn học tỉnh lẽ như chúng ta vẫn hằng mong muốn. Tất nhiên, muốn được vậy cần có thêm nhiều những điều kiện khác nữa. Những thông tin đầy đủ và kịp thời, hàng loạt vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa chính trị và văn học, về tự do sáng tác, và cả cái nhìn thoáng rộng từ Trung ương thấu suốt đến tận cơ sở... là những hỗ trợ đắc lực cho nhà văn sáng tạo.
Cuối cùng, khi nhìn lại tình hình văn học Bình Trị Thiên những năm qua, chúng tôi muốn nêu một vài suy nghĩ về việc quan tâm xây dựng đội ngũ những người sáng tác.
Lâu nay trong công việc này chúng ta đã có ưu điểm lớn, đoàn kết tập hợp được đông đảo lực lượng, đồng thời chúng ta lại vấp phải thiếu sót vừa gây ảo tưởng, vừa bỏ rơi.
Gây ảo tưởng nên việc xét chọn kết nạp vào hội viên nhiều khi quá dễ dàng. Tình trạng ấy dễ gây nên sự ngộ nhận. Đến nỗi có người đã nhầm tưởng một chút năng khiếu buổi đầu với tài năng thực sự, thậm chí có người còn vội "đóng vai nhà văn" mà không chuyên tâm rèn luyện, phung phí sức lực vào những việc vô ích, xa lạ, với cách sống mọi người mà cứ cho mình là "nghệ sĩ".
Một số ít người như thế đã không khỏi làm ảnh hưởng đến cách nhìn của nhiều người tốt đối với anh em văn nghệ. Mặt khác, chúng ta lại bỏ rơi chưa quan tâm thường xuyên đến anh chị em hội viên. Tổ chức Hội mấy năm qua còn nặng tính chất hành chính, quan liêu chưa thực sự là một hội nghề nghiệp. Hội viên phân hội văn học có đến hơn một trăm người "Xuân thu nhị kỳ" cũng chẳng mấy khi gặp gỡ. Một ít hoạt động văn nghệ chỉ mới hạn hẹp ở thành phố Huế và một vài thị xã thị trấn. Và ngay cả những nơi có điều kiện ấy, Hội vẫn chưa thực sự giúp đỡ người viết nâng cao tầm nhận thức, tầm văn hóa, chuẩn bị hành trang cho họ đi đường dài. Vì vậy, nhìn lại đội ngũ chúng ta có thể thấy số lượng đông nhưng người có sức bền thực sự không nhiều, qua sàng lọc của thời gian nhiều người đã rơi rụng; hiện tượng xuống sức, dẫm chân tại chỗ sẽ dễ dàng tạo ra những tác phẩm nhàm chán. Trước yêu cầu tạo nên nên một chuyển biến mạnh mẽ đáp ứng đòi hỏi của công cuộc đổi mới, đã đến lúc chúng ta cần nhìn thẳng vào tình hình, sàng lọc sắp xếp lại đội ngũ, thực sự quan tâm hơn nữa đến những người sáng tác, nghiên cứu, lý luận phê bình, tạo nên một sự gắn bó mật thiết giữa văn học và công chúng độc giả. Làm sao để chính từ những hoạt động ấy, đời sống văn học của tỉnh ta sẽ ngày càng khởi sắc, đội ngũ những người viết sẽ có thêm những sáng tác mới, góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp đổi mới cuộc sống đã và đang diễn ra sôi động hiện nay.
Huế 3-1988
P.N.T
(SH31/06-88)
---------------------
(1) Nhà xuất bản Thuận Hóa - 1983
(2) Nhà xuất bản Thuận Hóa - 1987
(3) Tên các tập thơ của Ngô Minh, Thái Ngọc San, Hải Kỳ, Lý Hoài Xuân.
(4) Chúng tôi sẽ có bài viết với những thống kê cụ thể nhân Đọc thơ trên "Sông Hương"
(5) Ý thơ Nguyễn Khoa Điềm
THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm. VẠN HẠNH Thiền sư
HỒ THẾ HÀ Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.
LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết: Đào tiên đã bén tay phàm Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?
CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.
PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.
HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.
BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.
NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.
PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...
TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".
MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.
TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H
TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...
BẢO CHI (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...
ĐỖ LAI THÚY Văn là người (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.
ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.