Nhẫn thạch của Atiq Rahimi

14:30 31/07/2009
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

Bìa tiếng Việt cuốn Nhẫn Thạch - Ảnh: tuanvietnam.net

Cuốn tiểu thuyết của nhà văn Pháp từng có một thời gian dài sinh ra và lớn lên ở Apghanistan (từ 1962 đến 1984), mới được Nhà xuất bản Hội Nhà văn liên kết cùng Nhã Nam phát hành ở nước ta, thực sự là một trong những tác phẩm gây nhiều chú ý trong đời sống văn học đương đại. Với một giọng văn mang đậm mùi thuốc súng khốc liệt mà bạn đọc có thể cảm nhận ngay về một thế giới còn xa lạ với chúng ta, thậm chí với toàn thể phần còn lại của thế giới, trừ Apghanistan, Atiq Rahimi đã kể lại câu chuyện của mình với những góc nhìn điện ảnh đầy tính khách quan và trang nghiêm, nhưng cũng đầy hóa thân vào nội tâm nhân vật chính.

Không hề có một nhẫn thạch nào trong tác phẩm, như huyền thoại của người Hồi giáo về một viên đá tại thánh địa Mecca, nơi bạn có thể kể lại mọi nỗi đau khổ, muộn phiền, rồi chờ một ngày nó vỡ tung ra, để đưa bạn vào một thế giới khác, nơi không còn nước mắt. Không gian câu chuyện chỉ là một căn phòng nhỏ, đổ nát với một người phụ nữ khắc khoải bên người chồng đang sống đời sống thực vật với một viên đạn trong gáy. Thông qua không gian ấy, một thế giới Hồi giáo được dựng nên với đầy đủ những khắc nghiệt và tàn bạo của nó. Quan trọng hơn, thế giới tinh thần người phụ nữ Hồi giáo, với nhân sinh quan và những trải nghiệm về hạnh phúc, hôn nhân, tình yêu, tính dục... đã được phác họa. Chồng chị, từng là một chiến binh Hồi giáo, giờ chỉ đóng vai trò như một chiếc nhẫn thạch cho chị tâm sự mọi muộn phiền, những bí mật và những nỗi đau mà chị vốn từng buộc phải giữ yên khi anh ta “còn sống”. Thời gian chỉ kéo dài trong vài tuần, nhưng thời gian nghệ thuật trong tác phẩm chỉ được tính bằng sự tuần hoàn của chuỗi hạt trên tay người vợ, hoặc 99 tên khác nhau của thánh Allad. Tất cả sự tuần hoàn đó, được đo bằng một cái đồng hồ chính xác nhất giữa người đàn ông và chị, đó là nhịp thở của anh. Nghệ thuật kể của Atiq Rahimi là mượn lời của người vợ, vừa nhằm thâm nhập khách thể thế giới Hồi giáo với đầy đủ sự bạo tàn của nó, vừa nhằm bóc tách chủ thể tinh thần của người phụ nữ từ bên trong, với đầy đủ những bí mật “tội lỗi” nhất như: không còn trinh khi cưới chồng, đau đớn trong đêm tân hôn, yêu cha của chồng, giết con chim cút, thường xuyên thủ dâm, nhờ người đàn ông khác mới có con do chồng vô sinh... Người nghe chuyện thực tế là một cái xác không hồn, nhẫn thạch của chị, nhưng người nghe chuyện tiềm ẩn lại là tất cả chúng ta, một thế giới vốn dĩ thống ngự bởi nam quyền, nhưng chưa bao giờ bạo tàn đến như thế. Mỗi lần kể là một diễn ngôn khác nhau, mang tính tư tưởng và cảm xúc khác nhau của người phụ nữ Hồi giáo.

Mặc dù kết thúc còn mang nhiều tính khiên cưỡng, nhưng một bản nhạc vĩ đại bao giờ cũng có thể tìm ra một vài nốt nhạc sai, song chính bản thân sự khiếm khuyết ấy, đôi khi lại tạo nên một tác phẩm vĩ đại về cuộc đời, vì mọi logich, qui luật, không phải bao giờ cũng đúng với tất cả, nhất là ở một nơi nào đó như Apghanistan. Do đó, Nhẫn thạch đối với những ai muốn hiểu về thế giới này, không phải là tác phẩm nên đọc, mà là tác phẩm phải đọc. Một tác phẩm đã được Hội đồng thẩm định giải Goncourt tặng khen: “Nhẫn thạch được chọn vì chất văn học tuyệt vời, tính hiện đại, khắc nghiệt, độ chính xác và lối viết không chút cường điệu của nó”.

F.A
(245/07-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐẶNG TIẾN    

    Đầu đề này mượn nguyên một câu thơ Nguyễn Đình Thi, thích nghi cho một bài báo Xuân lấy hạnh phúc làm đối tượng.

  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • LƯƠNG THÌN

    Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.

  • VƯƠNG TRỌNG

    Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).

  • NHỤY NGUYÊN  

    Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNG

    Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).

  • THÁI KIM LAN

    Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
     

  • HOÀI NAM

    Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.

  • ĐỖ LAI THÚY   

    Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.

  • TRẦN NHUẬN MINH   

    Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).

  • YẾN THANH   

    “vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
    ngọn lửa phù du mách bảo
    vui buồn tương hợp cùng đau”

                     (Hồ Thế Hà)

  • Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.

  • NGÔ THẢO

    Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.

  • Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Tôi gọi đó là nợ. Món nợ của hòn sỏi nhỏ Triệu Từ Truyền, trót mang trên người giọt nước mắt ta bà của văn chương.

  • NGÔ MINH

    Nhà thơ Mai Văn Hoan vừa cho ra mắt tập thơ mới Quân vương &Thiếp (Nxb. Thuận Hóa, 6/2015). Đây là tập “thơ đối đáp” giữa hai người đồng tác giả Mai Văn Hoan - Lãng Du.

  • DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN

    Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.

  • NGUYỄN HIỆP

    Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.

  • Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.