Khi nghe tin nhà văn Vũ Tú Nam đã trút hơi thở cuối cùng, lòng tôi dâng lên một nỗi buồn. Nhưng trong nỗi buồn ấy là những ký ức đẹp và ấm áp về ông. Hình ảnh ông hiện lên và ngự trị trên hình ảnh ấy là ánh mắt và nụ cười hiền hậu.
Nhà văn Vũ Tú Nam. Ảnh: NGUYỄN ÐÌNH TOÁN
Lúc nào đứng trước nhà văn Vũ Tú Nam, tôi cũng mang cảm giác an toàn. Và cảm giác ấy không phải chỉ của riêng tôi mà của hầu hết những người từng tiếp xúc ông, dù chỉ một lần. Nhà thơ cựu binh Mỹ Kevin Bowen, Giám đốc Trung tâm William Joiner (Mỹ), một trung tâm nghiên cứu chiến tranh Việt Nam thông qua văn chương là tổ chức đầu tiên dịch văn học cách mạng Việt Nam truyền bá cho công chúng Mỹ lúc nào cũng hỏi thăm nhà văn Vũ Tú Nam mỗi khi chúng tôi gặp nhau ở Mỹ hay ở Việt Nam. Nhà văn Vũ Tú Nam, nhà thơ Chính Hữu, nhà văn Hữu Mai, nhà thơ Hữu Thỉnh là những người đặt viên gạch đầu tiên dựng nên cây cầu hữu nghị giữa các nhà văn Việt Nam và Mỹ sau chiến tranh, tham gia tác động không nhỏ vào tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt- Mỹ. Chủ tịch danh dự của Trung tâm William Joiner hồi đó là Thượng nghị sĩ John Kerry đã thấu hiểu những mong muốn của các nhà văn cựu binh Mỹ là bạn ông và đứng về phía họ. Nhà văn Vũ Tú Nam cũng là nhà thơ Việt Nam đầu tiên xuất hiện trong thơ của Kevin Bowen. Kevin nói: "Vũ Tú Nam đã thay đổi tôi rất nhiều trong cách nhìn về những nhà văn cộng sản". Bởi thế, hình ảnh nhà văn Vũ Tú Nam hiện lên trong thơ Kevin giống như một "thiền sư" ngập tràn tinh thần văn hóa Việt: Ðêm nay, đêm trà sen/Dâng chén, dâng ngang mày/Gương mặt ông khuất khuất/Trong hương trà ngây ngất/Như dòng sông nhẹ trôi (Trà sen - tặng Vũ Tú Nam, Nguyễn Quang Thiều dịch).
Một hình ảnh hoàn toàn là Vũ Tú Nam. Ông mang một gương mặt ung dung với một nụ cười hiền từ và lặng lẽ. Lúc nào gặp ông, tôi cũng cảm nhận được bàn tay "rất lớn", dày và ấm của ông đặt lên vai tôi và hỏi thăm tôi công việc sáng tác như cách hỏi thăm của một bậc cha chú. Tôi gọi ông bằng chú, xưng cháu. Cách xưng hô này tôi chỉ dùng với một vài nhà văn lớn tuổi. Tôi có những kỷ niệm vô tình nhưng đặc biệt về ông. Tôi trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam trong nhiệm kỳ ông là Tổng Thư ký Hội Nhà văn (khóa 4). Hồi đó, cứ nộp một cái đơn, rồi đến một ngày thấy giấy mời đến nhận thẻ hội viên mà chẳng biết ai là thành viên hội đồng chuyên môn, lại cũng chẳng quen ai là Ủy viên Ban Chấp hành cả. Cũng trong nhiệm kỳ của mình, nhà văn Vũ Tú Nam cùng Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 4 đã tạo nên một đời sống văn học thật ấn tượng với các giải thưởng được trao cho Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Bến không chồng của Dương Hướng. Và cũng trong nhiệm kỳ đó, tôi đã được ông và Ban Chấp hành trao giải thưởng Hội Nhà văn hằng năm (1993) cho tập thơ Sự mất ngủ của lửa. Nhà thơ Hữu Thỉnh kể, nhà văn Vũ Tú Nam đã gọi ông và "bàn nhau" bằng mọi giá phải trao giải thưởng năm đó cho tập thơ này của tôi. Và hai ông cùng nhà thơ Chính Hữu đã tìm cách thuyết phục Ban Chấp hành Hội Nhà văn năm đó bỏ phiếu cho Sự mất ngủ của lửa. Ngày trao giải là ngày đầu tiên tôi tiếp xúc trực tiếp với ông. Trước đó, tôi chưa một lần tiếp xúc với ông như thế, kể cả khi tôi dự lễ kết nạp hội viên năm 1991. Trước lễ trao giải, nhà văn Vũ Tú Nam bước đến bắt tay chúc mừng tôi. Ông khen tập thơ của tôi và nói một câu làm tôi thật sự "choáng váng" vì hạnh phúc. Nhưng có lẽ khi nào viết hồi ký tôi mới viết chuyện đó ra. Rồi ông nói với tôi, hãy cứ thế mà viết và viết tự do hơn nữa, đừng phụ thuộc điều gì ngoài thơ ca. Ông bảo, rồi sẽ có những ý kiến trái ngược về tập thơ của tôi nhưng đó là điều rất bình thường. Hồi đó, tôi mới ngoài 30 tuổi, nên những lời động viên, dặn dò của ông thật sự vô cùng quan trọng. Và tôi đã im lặng để viết cho tới bây giờ, không nói lại một lời với những ý kiến phê phán tập thơ đó.
Đến một ngày tôi được phân công về Nhà xuất bản Hội Nhà văn làm Giám đốc, nơi nhà văn Vũ Tú Nam từng làm Giám đốc khi tôi còn là một chàng trai lơ ngơ và khi nhà xuất bản còn mang cái tên là Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Sau đó ông đi từ nhà xuất bản ở phố Nguyễn Du đến phố Nguyễn Ðình Chiểu trở thành người đứng đầu Hội Nhà văn Việt Nam. Những năm tháng đó, Nhà xuất bản Tác phẩm mới là nơi cho ra đời nhiều tác phẩm văn học Việt Nam đương đại quan trọng. Nếu quan sát cách sống của ông, ít ai nghĩ rằng nhà văn Vũ Tú Nam lại là người mở rộng bàn tay để đón chào những tác phẩm văn học đổi mới một cách mạnh mẽ và đột phá khi ông làm Giám đốc Nhà xuất bản và cả khi ông là người đứng đầu Hội Nhà văn. Bởi trong cuộc sống, ông luôn sống với một phong thái điềm đạm, lịch lãm và tinh tế. Văn chương của ông đã chứa đựng cốt cách, văn hóa và tình yêu con người như Sống với thời gian hai chiều, Mùa xuân tiếng chim, Văn ngan tướng công... Tôi mang cảm giác ông là người không có khả năng nổi giận và mọi sự náo động hay cực đoan khi lọt vào con người ông đều được hóa giải và trở nên yên bình. Thế nhưng có những tác phẩm của ông lại "vũ bão" hơn phong cách sống điềm đạm của ông cũng như ông là người có khả năng đón nhận những tác phẩm "gai góc" của văn học trong thời kỳ đổi mới. Ðấy là một điều đặc biệt của ông và cũng là sự đóng góp lớn của ông với văn học. Một đóng góp rất lớn nữa của ông chính là nhân cách của ông - nhân cách của một con người và nhân cách của một người cầm bút.
Theo Nguyễn Quang Thiều - NDĐT
Phan nhân 1972 ( Hồi ức K15 trường Chuyên Phan Bội Châu Nghệ Tĩnh - NXB Hội Nhà văn, tháng 7/2019 ) có lẽ là một trong những cuốn sách thú vị nhất về tuổi học trò mà tôi từng đọc.
Ngày 6-7, tại Hà Nội, buổi giao lưu ra mắt bút ký chính luận “Một thời Đông Bắc” của tác giả Vũ Mão và ký sự tiểu thuyết “Mãi mãi một thời Thiếu sinh quân” của nhà văn Ma Văn Kháng do NXB Kim Đồng tổ chức đã thu hút sự tham gia của đông đảo các nhà văn, nhà phê bình văn học, các cựu học viên trường Thiếu sinh quân Việt Nam.
Ra mắt tập thơ đầu tay năm 2003, đến nay, nhà văn Nguyễn Văn Học đã xuất bản 15 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, truyện ngắn và thơ.
Văn học Nhật Bản đang để lại dấu ấn sâu đậm và mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng. Bên cạnh dòng văn học kinh điển gắn liền với những tác giả có ảnh hưởng trên thế giới, thị trường xuất bản trong nước còn chứng kiến cuộc “đổ bộ” của những tác giả đương đại với số lượng tác phẩm không hề nhỏ.
Tôi vẫn luôn nghĩ rằng, đối với người nghệ sĩ, cô đơn tự xác lập hay cô đơn do ngoại cảnh, đó đều là những đặc ân. Bởi nhờ có cô đơn làm chất xúc tác, cảm thức sáng tạo mới bùng vỡ nơi người nghệ sĩ...” - Nhà văn Đỗ Chu cũng từng bảo: “Nghệ sĩ cô đơn được càng tốt!”.
Từ ba nguồn tư liệu chính sử, dã sử và dân gian, các nhà văn đã có cơ hội bung trổ trí tưởng tượng và khả năng hư cấu để cho ra đời những áng văn chương sinh động, hấp dẫn viết về lịch sử. Hai tiểu thuyết lịch sử mới ra mắt công chúng là “Từ Dụ Thái hậu” của Trần Thùy Mai và “Thiên địa phong trần” của Hà Thủy Nguyên.
Nhân kỉ niệm 62 năm thành lập (17/6/1957 – 17/6/2019), Nhà xuất bản Kim Đồng ra mắt ấn bản mới tập truyện Dưới chân Cầu Mây của nhà văn Nguyên Hồng. Tập truyện gồm ba truyện đặc sắc dành cho thiếu nhi: Đôi chim tan lạc, Dưới chân Cầu Mây vàCháu gái người mãi võ họ Hoa.
NXB Hà Nội và Thư viện Hà Nội tổ chức lễ ra mắt cuốn sách “Thời cuộc và Văn hóa” của nhà báo Hồ Quang Lợi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội nhà báo Việt Nam
Nhà thơ Hữu Thỉnh đánh giá Huy Cận là người đem tâm nguyện “làm bục nhảy đưa sự sống lên cao”. Nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu có dịp quần tụ nhớ về hồn thơ Huy Cận dịp 100 năm ngày sinh của ông.
“Ba năm tồn tại. Thời gian không dài. Nhưng kỷ niệm một thời niên thiếu tươi đẹp hào hùng trong gian khổ làm sao có thể quên!”. Sau hơn 70 năm, khi những mảnh ký ức bắt đầu mờ nhòa, nhà văn Ma Văn Kháng đã “gạn lấy chút sức lực còn lại”, “rờ rẫm nhớ lại những gì đã trải qua”, để tái hiện chân dung thế hệ “măng non cách mạng” giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp.
Nhà văn Trần Thùy Mai vừa ra mắt bộ tiểu thuyết lịch sử “Từ Dụ thái hậu” sau một thời gian dài im tiếng. Điều thú vị, cuốn sách đề cập đến lịch sử nhưng được tác giả viết bằng văn phong thuần Việt, với ngôn ngữ nhuần nhị để thu hút độc giả trẻ.
Có thể nói, tiểu thuyết gia hiện đại đầu tiên của văn học Việt Nam chính là nhà văn Hồ Biểu Chánh. Với kho tàng đồ sộ 64 cuốn tiểu thuyết, ông được mệnh danh là “người kể chuyện đời” đầy lôi cuốn và có cá tính.
Giữ một vị trí khiêm tốn trong đời sống văn chương, nhưng thể loại phi hư cấu thời gian qua vẫn đều đặn đến với độc giả. Thậm chí, nhiều tác phẩm tạo được tiếng vang lớn, được in hàng chục ngàn bản. Chỉ có điều, trong những bảng vàng văn chương trong nước, hiếm khi những tác phẩm thuộc thể loại phi hư cấu được xướng tên.
Nhân dịp kỷ niệm 65 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2019), NXB Kim Đồng vừa cho ra mắt tập thơ “Điện Biên chiến thắng, Điện Biên thơ” của Đại tá, nhà thơ Ngô Vĩnh Bình tuyển chọn và giới thiệu.
Sau 65 năm, những kinh nghiệm lịch sử, bài học quý giá từ chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn được học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Không chỉ là góc nhìn riêng của mỗi bên, việc hợp tác để khai thác khối tư liệu, tài liệu lưu trữ - di sản chung của hai dân tộc Pháp - Việt nhằm có thêm sự đối chứng, từ đó làm rõ hơn lịch sử.
“ĐIỆN BIÊN PHỦ: 13/3-07/5/1954” là cuốn sách chuyên khảo của Tiến sĩ, Đại úy người Pháp Ivan Cadeau. Cuốn sách cung cấp các tài liệu lưu trữ của Pháp về sự kiện Điện Biên Phủ và chiến tranh tại Đông Dương, trong đó có nhiều tài liệu chưa từng công bố tại Việt Nam.
Ngày 30/4/1975 mãi là một ký ức tồn tại sâu thẳm trong tâm trí của những người đã trực tiếp chứng kiến. Đặc biệt là nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh, người đã dành gần như cả cuộc đời cầm bút của mình để văn bản hóa lại những ký ức lịch sử về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước một thời của dân tộc Việt Nam.
Với sự nhân từ, đức độ, Từ Dụ thái hậu được dân gian lưu truyền là người phụ nữ quyền lực có sức ảnh hưởng to lớn dưới triều nhà Nguyễn. Từ cảm hứng ấy, nhà văn xứ Huế Trần Thùy Mai đã viết Từ Dụ thái hậu - một trường thiên tiểu thuyết gồm 69 chương, có thể xem là tiểu thuyết lịch sử dạng “cung đấu” hiếm hoi của văn học đương đại.
Sáng ngày 22/4/2019, tại thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành buổi toạ đàm khoa học, giới thiệu công trình Nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học ở Nam Bộ thời kì 1865-1954.
Sách của nhà phê bình khơi gợi tình yêu cuộc sống qua những vẻ đẹp giản dị, nhân văn.