Ảnh: Internet
Chính thi sĩ Nam Trân đã phong tặng cho Huế cái địa danh kép: Huế đẹp và thơ! Cho nên, Huế đã như một niềm khao khát với mọi nhà thơ chưa đến Huế. Niềm khao khát trong tôi càng cháy bỏng và tưởng như vô vọng trong những tháng năm chia cắt, không biết khi nào mới thống nhất đất nước để được vào thăm! Với tâm trạng như vậy trong bao năm, nay là lần đầu tôi cùng Huế... Huế đầu mùa mưa. Đêm qua, trận mưa rào đã rửa kỹ từng chiếc lá, lọc trong nước sông Hương, khiến cho con đường Lê Lợi men theo sông Hương có một vẻ tinh khiết, mới mẻ lạ thường. Tôi tản bộ dọc đường Lê Lợi để ngắm đất, ngắm trời, ngắm sông. Thi thoảng, những quán cà phê vườn đặc trưng của Huế lấp ló sau tầng lá cuốn hút tôi, tôi lại ghé vào gọi ly cà phê, ly đá chanh, thực ra chỉ là để nhâm nhi không gian thơ mộng của Huế: Những mảnh vườn bí ẩn Ô cửa sổ rợp xanh muốn nói điều gì Thủy trúc mọc um tùm trên đất ẩm... Có một lần, một ô cà phê vườn đã nói với tôi một điều cụ thể. Thí dụ ở một ô vườn phố Nguyễn Huệ, cô chủ quán cho biết: Nơi này nhà văn Hoàng Phủ NgọcTường đã trú lại ba ngày trước lúc ra bưng. Ở những khu vườn xanh ngun ngút đó, tôi như gặp chính tâm hồn của Huế, và như có không ít: tâm hồn mình! Đêm ấy, có hai kẻ sĩ của cố đô Huế đã vượt lên mọi phồn tạp đời thường để tiếp bạn thơ phương xa là Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Trọng Tạo. Hai người, mà đủ tiêu biểu cho bạn bè văn nghệ Huế. Và với tôi đêm đó, đủ để ghi khắc ấn tượng về Huế suốt đời. Đó là đêm nghe hát trên con đò lênh đênh giữa dòng Hương. Hoàng Phủ Ngọc Tường làm người giới thiệu, phân tích nguồn gốc, tính chất những điệu hò Huế, những bài bản âm nhạc cổ điển, cung đình và dân gian Huế. Với trí tuệ uyên bác, với giọng người trí thức miền Trung nhỏ nhẹ, sâu lắng của Hoàng Phủ Ngọc Tường chẳng những ru tôi vào cõi thưởng ngoạn, thẩm âm cao đẹp của tiền nhân mà còn kích thích những ca sĩ, nhạc sĩ đàn hát một cách phấn hứng cho xứng với lới giới thiệu trang trọng, bay bổng. Những bản nhạc, bài ca ngỡ đã chai mòn với họ bỗng được sống dậy, tràn đầy cảm xúc... Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo chỉ đóng vai bạn rượu, nhưng là một gương mặt thân quen Làng quan họ quê tôi với các nghệ sĩ Huế nên chỉ một cái gật đầu tán thưởng cũng làm nức lòng người hát. Bá Nha và Tử Kỳ thời nào chẳng có! Bỗng nhớ đến những đêm hát ả đào thanh lịch dưới roi chầu sành điệu của bác Nguyễn, mà kẻ hậu sinh chỉ được đón vọng chút hồi âm! Tôi còn nhớ tên các nghệ sĩ đêm ấy: Kim Liên, Quỳnh Hoa, Khánh Vân với Thái Hùng đàn nguyệt, Thanh Vinh đàn thập lục. Đón khách thơ từ Hà Nội, Khánh Vân mở đầu bằng bài thơ ngâm Bài thơ thôn Vỹ. Bài thơ của Hàn Mặc Tử ai cũng thuộc, nhưng được nghe giữa dòng sông Hương mới cảm nhận hết vẻ đẹp tinh tế của nó. Tôi đã thực sự chết đuối trong bài thơ, trong giọng ngâm, trong sự lênh đênh của con đò: Đò cứ trôi, trôi vào vô định Biết đâu Cồn Hến, đâu Lim Long Cô áo đỏ Bài thơ thôn Vỹ Cho tôi chết đuối giữa dòng trong Rượu - ngất như vậy - nhưng chưa chết được! Sau Khánh Vân là cô áo tím Quỳnh Hoa với khuc ca Cổ Bản, tôi lại được vớt lên để chiêm ngưỡng Huế, trong khi: Bềnh bồng... bềnh bồng... đò bềnh bồng Gió đêm nhẹ, đò trôi như không Cô áo tím vớt tôi, tiếng hát Huế hiện lên từ cõi ước mong... Rồi bỗng ào ào, dào dạt... mùa mưa Huế đã bắt đầu. Lần này không phải riêng tôi, mà cả con đò chết đuối giữa nước trên trời, nước dưới sông bao vây, sàm sập. Tôi đã nhích về phía mưa hắt để khỏi ướt áo cô gái đang phục vụ nghệ thuật hết mình: Mưa Huế sập sùi trên mái liếp Sông - Mưa phong kín cả con đò Tôi che mưa hắt cho em đó Đủ ướt tâm tư một tiếng hò! Chúng tôi, người đàn, người hát, người nghe, người say mê giới thiệu như mê đi trong cung bực mưa Huế, không những không ảnh hưởng gì đến nghệ thuật mà còn góp phần khu biệt chúng tôi với thế giới bên ngoài. Tôi thầm nghĩ: Một đời, dễ được mấy lần hạnh phúc như thế này? Và đoạn kết bài thơ đã lờ mờ xuất hiện trong óc tôi: Dẫu không được chết, xin được sống để nhớ để thương cùng tháng năm Say câu Cổ Bản, Tương Tư khúc Huế một đời tôi, em biết chăng? Sớm hôm sau, như để nối dài cuộc say Huế không bao giờ tỉnh trong tôi, hai thi sĩ Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Trọng Tạo lại ôm chai rượu thuốc ra ga tiễn tôi xuôi Đà Nẵng. Tôi nhớ Hoàng Phủ Ngọc Tường dúi vào tay tôi mấy chục cuốn tạp chí Sông Hương nhờ đưa cho Thanh Quế. Ôi! Tôi lại được làm người phát hành tình cảm của các bạn văn nghệ Huế! Từ chối phòng khách lịch sự của giám đốc Ga Huế, chúng tôi ngồi xệp trên thềm ga chia nhau chai rượu thuốc vừa cạn khi tầu đến. ĐÊM SÔNG HƯƠNG Đò cứ trôi, trôi vào vô định Biết đâu Cồn Hến, đâu Kim Long! Cô áo đỏ: bài thơ Thôn Vĩ Cho tôi chết đuối giữa dòng trong Bềnh bồng, bềnh bồng... đò bềnh bồng Gió đêm nhẹ, đò trôi như không Cô áo tím vớt tôi, tiếng hát Huế hiện lên từ cõi ước mong! Mưa Huế sập sùi trên mái liếp Sông, mưa phong kín cả con đò Tôi che mưa hắt cho em đó Đủ ướt tâm tư một tiếng hò Dẫu không được chết, xin được sống để nhớ, để thương cùng tháng năm Say câu Cổ Bản, Tương Tư khúc Huế một đời tôi, em biết chăng? V.L (140/10-00) |
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.
BĂNG SƠN Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.
PHAN THUẬN THẢO Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non. (Ưng Bình Thúc Giạ)
LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!
BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.
HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.
MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.
NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.
TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.
TÔN NỮ KHÁNH TRANG Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.
TRƯƠNG THỊ CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)
NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.