Vợ chồng nhạc sĩ Trần Hoàn- Ảnh: yeutretho.com
Bác đưa tôi vào căn phòng nhỏ ấm áp hương trầm có bàn thờ gia tiên, bên cạnh là bàn làm việc và tủ sách. Trên bàn ngổn ngang giấy tờ, nhạc, cùng những tập bản thảo. Từng chủ đề ca khúc được bác xếp sắp rất khoa học. Dọn dẹp bàn làm việc, bác đưa cho tôi một danh mục hơn 30 ca khúc xuân, cùng lời giới thiệu xuất xứ và cất lên lời ca minh họa khi tôi còn chưa rõ ca từ. Lại tủ sách, bác lấy đưa tôi đĩa VCD ghi lại chương trình Con đường âm nhạc “Hát về mùa xuân” đã phát trên sóng truyền hình đầu năm 2010. Đôi mắt như biết nói ấy cứ sáng lên rạng ngời cùng giai điệu xuân dìu dặt trong căn phòng ấm áp tại tư gia (số 65 ngõ Vạn Bảo, quận Ba Đình, Hà Nội). Hướng lên di ảnh chồng nồng nàn hương hoa, bác như đang trở về một thời xa xăm “Anh Hoàn mê viết nhạc, say mùa xuân. Mùa xuân luôn luôn tạo cho anh ấy những cảm xúc mới mẻ, thăng hoa, đầy sáng tạo. Cháu đọc và nghe sẽ hiểu thêm sự độc đáo trong những ca khúc mùa xuân của anh ấy, nhất là những ca khúc xuân cho Huế…”. Quê Quảng Trị, sống, lớn lên và gắn bó máu thịt với Huế, nhạc sĩ Trần Hoàn có một tình yêu rất riêng với Huế như ông đã từng tâm sự “Mình xa Huế đi kháng chiến từ đầu năm 1947, mãi 28 năm sau, mùa xuân 1975 mới được trở về Huế. Đợt Tổng tấn công 1968 có đến Huế nhưng chỉ đến được Kim Long. Chín năm ở chiến khu nhớ Huế day dứt khôn nguôi. Có những đêm rừng nhìn về quầng sáng điện của thành phố hắt lên càng nhớ Huế da diết...”. Với Huế, những ca khúc xuân có thể không nhiều, nhưng nó lại là những ca khúc vang lên là khiến người nghe phải nặng lòng mà nhớ; viết cho Huế mà người nghe luôn cảm nhận đó là mùa xuân của đất nước, mùa xuân trong niềm mong đợi của nhân dân, có một đời sống riêng trong lòng công chúng, luôn xuất hiện với tần suất cao trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong máy nghe nhạc của gia đình, cá nhân không chỉ dịp tết đến, xuân về. Mùa xuân là biểu tượng của sự sống, của sức vươn lên, trỗi dậy và gợi cảm hứng sáng tạo cho nghệ sĩ, làm nên sự phong phú, đa sắc màu xuân của đất trời và lòng người. Có thể kể đến các ca khúc: Dâng Người tiếng hát mùa xuân (Nguyễn Văn Thương), Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao), Đảng cho ta cả một mùa xuân (Phạm Tuyên), Hà Nội mùa xuân (Văn Ký), Đường 4 mùa xuân (Đỗ Nhuận), Cung đàn mùa xuân (Cao Việt Bách), Mùa xuân đến rồi đó (Trần Chung), Đường tàu mùa xuân (Phạm Minh Tuấn), Mùa xuân bên cửa so (Xuân Hồng), Mùa xuân (Trần Tiến), Làng lúa làng hoa (Ngọc Khuê)... Nhạc sĩ Trần Hoàn, sở hữu trên 30 ca khúc mùa xuân (Một mùa xuân nho nhỏ, Chào mùa xuân, Tình ca mùa xuân, Hát về mùa xuân, Nắng xuân, Mùa xuân mừng Đảng kính yêu, Tiếng gọi mùa xuân, Em nghĩ gì khi mùa xuân đến…) vừa mang tâm thế chung như phần đông nhạc sĩ, nhưng vừa mang nét riêng “rất trữ tình”, “rất Trần Hoàn” (như nhận xét của nhà thơ Huy Cận) và phong cách riêng của Huế. Trong sáng tác của ông, mùa xuân luôn song hành cùng cuộc đời chiến sĩ - nghệ sĩ, một mùa xuân tươi trẻ, mùa xuân trong cách cảm nhận cuộc sống, chứ không đơn thuần chỉ là mùa xuân của đất trời trong tiết mở đầu Xuân-Hạ-Thu-Đông. Kể cả những ca khúc không có một ca từ “xuân”, nhưng đã ẩn trong đó tình xuân nồng đượm. Mùa xuân song hành cùng nhạc sĩ Trần Hoàn trong cuộc đời của một nghệ sĩ sáng tác cũng như trong sự nghiệp cách mạng mà ông sớm dấn thân. Mỗi mảnh đất đi qua đều để lại trong ông những tình cảm yêu mến. Ông là nghệ sĩ của mùa xuân - mùa xuân rất riêng Trần Hoàn. Sau mùa xuân năm 1968, ông đã viết ca khúc về Huế “Có một mùa xuân lịch sử”. Âm điệu của bài hát vừa thiết tha với một tình yêu Huế cháy bỏng, nhưng đã vươn lên tầm sử thi về một mùa xuân lịch sử, mùa xuân với sức mạnh riêng của nó để xua tan đông tàn lạnh giá, hướng về ánh mặt trời. Trước Đại thắng Mùa xuân 1975, nhạc sĩ có mặt ở Huế lúc 10giờ đêm ngày 25/3/1975 và ngày hôm sau khi Trị Thiên - Huế giải phóng, trước niềm vui bất tận, xúc động dâng trào, nhạc sĩ đã viết ngay ca khúc “Nắng tháng Ba” trong cảm xúc xuân phơi phới. Chính hiện thực sinh động hào hùng và tình yêu với quê hương đất nước đã đẩy cảm xúc của người nghệ sĩ dâng trào mãnh liệt. Ca từ bộc lộ rất tự nhiên, giản dị và chân thành, không có dấu vết của sự trau chuốt, gọt dũa và mặc dù không nhắc tới từ xuân, nhưng tình xuân cứ tràn trào trong từng nốt nhạc. Lời ca là tiếng reo vui bất tận, là hạnh phúc không thể kìm nén, là lời nhắn nhủ, tâm tình tha thiết, ngập tràn ánh sáng, sắc xuân và rộn rã thanh âm “Nắng hửng lên rồi…”. Ca khúc ấy được đón nhận nồng nhiệt, kịp truyền đi trên sóng phát thanh và được dùng làm khúc nhạc mở đầu cho Đài Phát thanh Huế những năm đầu giải phóng. Sau khi 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên hợp nhất thành tỉnh Bình Trị Thiên, nhạc sĩ Trần Hoàn đảm nhận cương vị người phụ trách tuyên huấn, Ủy viên Ủy ban Nhân dân, kiêm Trưởng ty Văn hóa. Tình yêu với Huế, với dải đất miền Trung trong ông luôn trọn vẹn. Nhưng là tỉnh lớn, lại vừa mới giải phóng, biết bao thách thức đang đón đợi phía trước. Dẫu phải chịu áp lực công việc, nhưng tình yêu âm nhạc đã tạo cho nhạc sĩ ngọn nguồn cảm hứng. Nói như Johaw wolf Goethe, “Âm nhạc là một sức mạnh thăng hoa”, lại như một chỗ dựa bền vững giúp nhạc sĩ cân lượng cảm xúc để không rơi vào trạng thái “nhất bên trọng nhất bên khinh” của một người mang trách nhiệm “kép” - nghệ sĩ và chiến sĩ. Công việc bận rộn nhưng nhạc sĩ vẫn giữ thói quen là sống và viết, không cho phép bộ óc biếng lười, sức sáng tạo trễ nải. Đến đâu mùa xuân cũng thường trực trong trái tim người nghệ sĩ vốn nhạy cảm, cần mẫn. Sóng nhạc nối từng lớp tuôn trào. Thường vào lúc 4-5 giờ sáng, nhạc sĩ lại mở lòng cho con người nghệ sĩ thả sức sáng tạo. Và bao giờ bên người nghệ sĩ tài hoa ấy cũng là người vợ hiền thục, thủy chung và cây đàn ghi ta. Nhạc sĩ Trần Hoàn đam mê sáng tác, yêu Huế, đắm say xuân, cuộc sống để chưng cất thành ngôn ngữ âm nhạc với đa dạng chủ đề. Là một “Bá Nha” với mong muốn bên mình có nhiều “Chung Tử Kỳ”. Những lúc thăng hoa, người vợ yêu quý của ông thường là “người thư ký trung thành”, thẩm định nghiêm khắc, là thính giả đầu tiên của những ca khúc ấy. Ngoài vợ mình, ông không giấu nổi “đứa con tinh thần” với bạn bè, đồng nghiệp. Vợ nhạc sĩ hiểu hơn ai hết “Người nghệ sĩ thường có niềm vui được chia sẻ sáng tác mới của mình. Khi anh Hoàn viết, mình thường trở dậy pha tách trà và ngắm anh ấy sáng tác. Sự thăng hoa lan sang cả mình. Còn những khi anh đi công tác, có khi bài hát còn tươi nét mực, anh ấy đã thức các ca sĩ đi cùng thể hiện ngay…”. Nhạc sĩ Trần Hoàn thổi hồn cho mùa xuân ở Huế. Mùa xuân trong bản “Tình ca mùa xuân” đã đến trong niềm mong đợi của khán giả, ở mọi lứa tuổi: Em ơi em mùa xuân đã về trên cành lá Tiếng chim kêu ngọt quá, cho trời xanh xanh thẳm
Mùa xuân trong ca khúc của ông trở nên đẹp hơn bởi tình yêu dệt nên bản tình ca mùa xuân. Có thể nhạc sĩ không viết cho một trường hợp cụ thể, nhưng sự trải nghiệm cuộc đời, tình yêu được nâng lên ở tầm khái quát sẽ giúp những đôi lứa yêu nhau tìm thấy mình trong đó. Từ ngày cưới (1950) cho đến khi chiến tranh kết thúc, cũng như bao đôi lứa, vợ chồng nhạc sĩ Trần Hoàn đã “đốt cháy lửa tình yêu” cho những năm tháng xa nhau. Đâu có thời gian gần nhau “để mà giận dỗi”. Sự thiếu vắng người chồng dằng dặc những năm tháng chiến tranh, nhất là trong ngày xuân, càng buồn hơn bao giờ hết. Thư vợ nhạc sĩ gửi vào ngày 1 Tết năm 1970 là nỗi niềm ấy: “Anh thân yêu! Đã bao tết mẹ con em vắng anh. Tết đến bao nỗi niềm mong nhớ. Chắc anh cũng không khác anh nhỉ? Em còn có niềm vui là các con. Anh chỉ có bếp lửa rừng. Trong thư gần đây anh phê bình em, hay thắc mắc anh không được ra và đáng lẽ “phải mừng cho sức khỏe anh chứ. Thú thật với anh, mừng thì có mừng nhưng nó không thay thế được sự nhớ mong...” (Những bức thư vượt tuyến, Nxb Phụ nữ. H.1999, tr.267). Tình yêu, sự chờ đợi vẫn tươi xanh rời rợi. Tình yêu cùng mùa xuân đã chuyển thành âm điệu da diết cùng lời ca ngọt ngào: Ngày anh đi, cách xa khuây sao được nỗi nhớ Thương nhau dù cách trở vẫn trọn đời tin nhau Sự xa cách trong trường hợp của riêng nhạc sĩ cũng là chung cho những đôi lứa yêu nhau thời ấy. Vì thế, bản “Tình ca mùa xuân” vang lên có sức mạnh kỳ lạ, vừa động viên những chiến sĩ biên phòng chắc tay súng, giữ cho em mùa hoa đào “Rồi anh lại ra đi, vui như ngày hội. Mùa xuân biên giới, súng anh giữ trời xa”, lại vừa động viên người nông dân tích cực tăng gia sản xuất: Trong ánh mắt em cười, có màu xanh khoai sắn Trong vòng tay xinh xắn, có hình dòng kênh xanh… Kỷ niệm tình yêu trong xa cách của riêng vợ chồng nhạc sĩ Trần Hoàn đã trở thành tiếng lòng của những đôi lứa yêu nhau khi cảm nhận được “Mùi hương nào rất quen nghe như làn môi ấm”… Giữa thơ và nhạc luôn cộng hưởng để tạo cảm xúc thăng hoa. Nhạc sĩ Trần Hoàn rất có duyên khi phổ nhạc cho thơ. Trong rất nhiều ca khúc phổ thơ ấy, tôi đặc biệt ấn tượng với ca khúc “Một mùa xuân nho nhỏ”. Khi ông giữ cương vị Phó Trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, phụ trách văn hóa - văn nghệ, tôi có may mắn được giúp việc thủ trưởng. Và cũng chính thời gian ấy, tôi được biết thêm nhiều câu chuyện “bếp núc” của những ca khúc nổi tiếng, như: Sơn nữ ca, Lời người ra đi, Lời ru trên nương, Một mùa xuân nho nhỏ… Nhạc sĩ Trần Hoàn và nhà thơ Thanh Hải đã có thời gian được sống, công tác bên nhau, cùng đào hầm, chặt cây, hái lá mây làm nhà; những lúc cùng chạy càn, lang thang trên rừng, vật vã với cơn đói, biết “từng cơn ớn lạnh - Sốt run người vầng trán mướt mồ hôi” (Chính Hữu); cùng chuẩn bị thành lập Chị Hội Văn nghệ giải phóng Trị Thiên Huế năm 1969; cùng khôi phục và phát triển phong trào văn hóa văn nghệ Khu ủy Trị Thiên (nhạc sĩ Trần Hoàn làm Chủ tịch, còn nhà thơ Thanh Hải ở cương vị Phó Chủ tịch, kiêm Tổng Thư ký). Nhạc sĩ Trần Hoàn dường như vẫn xúc động như buổi ban đầu viết ca khúc Một mùa xuân nho nhỏ… Giọng trầm buồn, ngẫm ngợi, ông thổ lộ: “Bác phổ nhạc bài thơ cuối cùng của một người bạn của bác - nhà thơ Thanh Hải khi đang nằm trên giường bệnh…”. Và hôm nay, khi viết bài này, tôi có thêm nguồn tư liệu sinh động là những bản nhạc xuân và tập bản thảo “Nhạc sĩ Trần Hoàn - Tình yêu và sự nghiệp” (bác Thanh Hồng đang tập hợp, viết và dự định sẽ xuất bản năm nay). Nhạc sĩ Trần Hoàn viết “Tôi nhớ những ngày cuối cùng của Thanh Hải. Lúc bấy giờ là vào năm 1980, bệnh của Thanh Hải tái phát buộc anh phải vào bệnh viện. Gần như suốt năm ấy anh phải khóa mình trong chiếc phòng nhỏ ở Bệnh viện Huế. Những ngày đó, Thanh Hải có dịp ôn lại quãng đời gian khổ của mình. Dòng sông Hương êm đềm, những bông hoa tím biếc dọc đường Lê Lợi, những tà áo trắng của nữ sinh sau buổi tan trường, cuộc sống vẫn hối hả từng ngày, thành phố từng bước khắc phục hậu quả chiến tranh... càng làm anh bùi ngùi, thôi thúc anh làm việc. Một lần vào bệnh viện, thấy Thanh Hải đang tranh thủ viết. Chiếc bàn nhỏ kê đầu giường bộn bề những bản thảo, gạch xóa nham nhở. Tôi khuyên can: - Thôi Hải hãy nghỉ đi đã. Đừng suy nghĩ và thức đêm nhiều ảnh hưởng đến sức khỏe! - Cám ơn anh. Nhưng cuộc sống có ngừng phút nào đâu, và cảm xúc cũng không ngừng đọng lại, mặc dù ốm. Nhớ mãi đến tấm gương của Ôxtơrôpxki bại liệt mà vẫn được tác phẩm “Thép đã tôi thế đấy”, thì công việc của mình đã thấm vào đâu hở anh? Tôi nhìn Thanh Hải mà bùi ngùi. Dường như đoán trước được căn bệnh của mình, Thanh Hải nhìn tôi như van lơn, chờ đợi một sự đồng cảm. Tôi ôm Thanh Hải, cầm tập bản thảo và bỗng nhiên thấy Thanh Hải có lý. Đó là lúc Thanh Hải hoàn thành tập Trường ca Hành khúc người ở lại nói lên nỗi niềm của người không đi tập kết bám trụ quê hương... Bản trường ca viết trong 8 tháng mới hoàn thành. 8 tháng nghĩ suy, trăn trở, nhớ lại để tôi thêm nghị lực trước bệnh tật, ốm đau, để mài thêm dũng khí sáng tạo, sáng tạo đến phút cuối cùng. Và cái ngày xót xa nhất đã đến: Ngày 15/12/1980. Huế mưa dầm dề... Tôi đọc lời điếu. Bản thảo bài điếu văn nhòe vì nước mưa và nước mắt. Đến nửa chừng nhà thơ Quang Hà và Thanh Tâm (vợ Thanh Hải) đưa cho tôi bài thơ cuối cùng của Thanh Hải có nhan đề “Một mùa xuân nhỏ nhỏ”, tôi đọc ngay trong lễ truy điệu. Cả vườn im phăng phắc, lắng nghe. Khi bài thơ kết thúc, tiếng khóc bùng lên át cả tiếng gió rít... Sau lễ hạ huyệt, nhạc sĩ ngồi lại một mình, đọc lại bài thơ. Nỗi đau và tiếc thương nhân cách của một thi sĩ - chiến sĩ thể hiện trong niềm tâm sự cuối cùng: Ta làm con chim hót/ Ta làm một nhành hoa/ Ta nhập trong hòa ca/ Một nốt trầm xao xuyến/ Một mùa xuân nho nhỏ/ Lặng lẽ dâng cho đời... Nhạc sĩ càng hiểu Thanh Hải hơn: “Tôi coi đó là phương châm xử thế đúng đắn của mỗi người sáng tác trong xã hội, khiêm tốn, giản dị, tích cực, không ồn ào mà đầy trách nhiệm với đồng bào đồng chí. Tôi phổ nhạc ngay bài thơ trong sự tiếc thương người đồng chí thân yêu mà tôi kính phục…”. Một mùa xuân nho nhỏ có thể coi là một trong những giai điệu đẹp nhất về mùa xuân của âm nhạc Việt Nam. Nhạc sĩ Trần Hoàn đã cố gắng trung thành với nguyên bản bài thơ. Ngôn ngữ âm nhạc độc đáo tạo nên hình tượng thẩm mỹ. Nỗi đau mất bạn, sự tri ân, cùng ngẫm ngợi về xuân đất nước sau những ngày giải phóng, nhạc sĩ thừa nhận viết về xuân mà mở đầu giai điệu hơi buồn. Nhưng sự tài tình của nhạc sĩ chính là tạo nên giai điệu sáng, vang ngân như nghị lực vươn lên của đất nước sau chiến tranh trong đoạn điệp khúc ở cuối: Mùa xuân, Mùa xuân/ Một mùa nho nhỏ/ Lặng lẽ dâng cho đời/ Mùa xuân, Mùa xuân/ Mùa xuân tôi xin hát/ Khúc Nam ai, Nam bằng... Bài hát được gửi ra Ban Ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam và mở đầu buổi phát thanh chào mừng xuân 1981, ca sĩ Kim Phúc - lúc đó là sinh viên Nhạc viện Hà Nội (nay là Nghệ sĩ ưu tú) đã hát rất thành công, vang lên trên sóng phát thanh trên cả nước về một mùa xuân độc lập và thống nhất. Thế mới biết thơ và nhạc “cộng hưởng” để tạo nên hiệu quả thẩm mỹ. Và cũng chỉ được chắp cánh bởi cảm xúc thăng hoa kỳ diệu ấy thơ và nhạc đã đi vào đời sống văn học nghệ thuật như một dấu ấn khó phai. Qua hồi ức của nhạc sĩ Trần Hoàn, trong tôi vẫn nguyên vẹn cảm xúc nao nao, bồi hồi, xao xuyến, bâng khuâng, xen lẫn suy tư, ngẫm ngợi về bài thơ cuối cùng của nhà thơ đầy tài năng như lần nghe đầu tiên nghe “Một mùa xuân nho nhỏ”, nhưng hiệu quả cảm xúc, thẩm mỹ đem lại cho người nghe thì vô cùng lớn lao. Nhân cách, sự sáng tạo của người nghệ sĩ với xã hội, với cuộc đời, với quá khứ và tương lại thật đáng nể trọng. Cái tên Trần Hoàn mà nhạc sĩ đã lấy trong câu “Đào nguyên xưa Lưu Nguyễn quên trần hoàn” của ca khúc ấy làm bút danh đã làm nên tên tuổi một Trần Hoàn nghệ sĩ, một Trần Hoàn chiến sĩ với những trọng trách được Đảng tin yêu giao phó trên mặt trận tư tưởng - văn hóa. Những ca khúc ấy tồn tại cùng năm tháng như một di sản văn hóa cho dân tộc. Những ca khúc nổi tiếng, như: Tình ca mùa xuân (1978), Một mùa xuân nho nhỏ (1980), Hát về mùa xuân… viết trong cảm xúc Huế, nhưng lại mang mùa xuân chung của đất nước, đã làm nên một “thương hiệu xuân” cho ông. Người nghệ sĩ đã lắng nghe mùa xuân về với những giai điệu vui tươi, tưng bừng, náo nức, nhưng cũng đầy trăn trở, suy tư “Một mùa xuân nho nhỏ - Lặng lẽ dâng cho đời...”. L.T.B.H (265/3-11) |
NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)
LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.
THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.
HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...
BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.
NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.
HỒ THẾ HÀ Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.
TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.
TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.
HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.
NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)
LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)
VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)
NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.
BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.
PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)
HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.
PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.