Nhà thơ và cuộc “lưu đày” xứ mộng

09:34 11/03/2010
VÕ TẤN CƯỜNGLịch sử văn minh của nhân loại đã trải qua những phát kiến, khám phá vĩ đại về khoa học kỹ thuật và vũ trụ nhưng sự bí ẩn của tâm linh con người thì vẫn luôn là thách thức chưa thể giải mã.

Nhà thơ Võ Tấn Cường - Ảnh: votancuong.vnweblogs.com

Khám phá bí mật sự xung động quá trình sáng tạo của nhà thơ cũng chính là lạc vào thánh đường hun hút của tâm linh con người. Hành trình của nhà thơ đi từ nỗi ám ảnh của vô thức đến sự ra đời hoàn chỉnh của bài thơ trên trang giấy dài thăm thẳm và là cuộc “lưu đày” bất tận vào xứ mộng. Cuộc “lưu đày” vào xứ mộng diễn ra trong từng khoảnh khắc sáng tạo và cả cuộc đời của nhà thơ. Người ta có thể đếm được xác phù du gục chết dưới chân sau khi lao vào xứ sở của ánh sáng nhưng lại chẳng thể biết được có bao nhiêu nhà thơ giữa cuộc lưu đày vào xứ mộng đã vĩnh viễn đem theo xuống mồ nỗi hoài vọng về cái đẹp và sự khát khao hòa điệu với sự sống.

Nhà thơ chính là kẻ “lưu đày” âm thầm, tự nguyện vào xứ ở của sự cô đơn và cõi mộng. trên đường hướng về xứ mộng, nhà thơ phải xa lánh mọi vinh hoa và phú quý, tống tiễn mọi cám dỗ của trần thế để lựa chọn sự dấn thân bất chấp hiểm nguy nhằm cứu chuộc cái đẹp trong bản ngã chính mình và vũ trụ. Xứ mộng là vương quốc bao la, là xứ sở của sự an nhiên và tự tại, là nơi hội tụ của mọi thái cực như hạnh phúc và bất hạnh, ảo và thực, ánh sáng và bóng tối… Xứ mộng không ở đâu xa, nó thấp thoáng đâu đây, nó ẩn sâu trong bản ngã nhưng chúng ta không nhìn thấy nó chính là do chúng ta bị những “thị dục” của trần thế lôi cuốn và che lấp. Mộng và thực, hư ảo và trần thế là hai cõi đi về của nhà thơ trong quá trình sáng tạo. Nhà thơ chính là gạch nối kỳ diệu giữa mộng và thực, thiên đàng và địa ngục, thế giới ngày nay và sự sống ngày mai…

Nhà thơ tự “thôi miên” chính mình và bạn đọc bằng linh cảm về sự du dương của nhạc điệu và sự liên tưởng cùng những hình ảnh huyền ảo, quyến rũ, bất ngờ. Nhà thơ sáng tạo thế giới thi ca chính là tạo dựng một thế giới mộng mơ. Thế giới mộng mơ liên hệ với thế giới loài người đang sống như hai chiếc bình thông nhau trong thế giới ngôn từ thi ca. Trong quá trình sáng tạo nhà thơ tri giác và suy tưởng không hướng về thực tại mà “siêu thoát” về thế giới kỳ ảo, huyền diệu của mộng mơ. Thi ca dù sáng tác theo trường phái lãng mạn hay hiện thực, ấn tượng hay tượng trưng cũng đều hướng về sự mơ hồ, lung linh hình ảnh, ý nghĩa và sự gợi cảm, tạo hình của ngôn từ, tạo vật. Thi hào Tagore từng viết: “Tình yêu là sự ảo hóa”! Vâng chính sự ảo hóa đã làm cho tình yêu thêm kỳ diệu và là chất men khiến tình yêu thêm sinh sôi, tràn đầy sức sống. Không gian vũ trụ và tâm tưởng của các cuộc gặp gỡ giữa Romêo và Julliett, giữa Trần Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh, giữa Kim Trọng và Thúy Kiều, giữa Chí Phèo và Thị Nở đều tràn đầy sự mơ mộng, lung linh và huyền ảo. Thi ca cũng vậy. Chính sự ảo hóa đã khiến thi ca còn cần thiết với tâm linh con người. Thi ca là sự ảo hóa và nhà thơ thường sáng tạo trong sự ảo hóa của tâm linh và sự vật. Không hiếm những bài thơ tuyệt tác đã ra đời trong cơn mơ hoặc giữa sự chập chờn của lý trí và cảm xúc, giữa mộng và thực. Thi sĩ Coleridge sau một cơn say á phiện, trong giấc ngủ mơ màng đã sáng tạo nên một bài thơ bất hủ nhan đề “Hốt Tất Liệt Hán”. Thi sĩ Tô Đông Pha cũng viết về sự liên hệ, hòa nhập giữa mộng và thực tùy thuộc vào khoảng cách của “tầm nhìn” tâm linh con người:

Khói ngút non lô sóng Triết Giang
Khi chưa đến đó luống mơ màng
Đến rồi hóa vẫn không gì khác
Khói ngút non lô sóng Triết Giang

Nếu con người là “cây sậy biết tư duy” thì nhà thơ phải là người biết mộng mơ và có khả năng biểu hiện nỗi mộng mơ của mình lên trang giấy. Đừng xem thường giấc mộng. Giấc mộng là một nửa cuộc đời của một con người nhưng lại là cả cuộc đời của nhà thơ. Một mùi hương xa xôi thoang thoảng có thể gợi nhớ lâu dài và bền vững hơn cả lâu đài thành quách hàng triệu năm. Một giấc mộng cũng có thể làm biến đổi cuộc đời một con người hơn cả một giáo lý, một tư tưởng triết học. Khả năng mộng mơ phần nào bộc lộ phẩm hạnh thi ca của nhà thơ. Những nhà thơ nào mà tâm hồn cạn kiệt nguồn suối mộng mơ thì có thể xem như thi ca của họ đã giãy chết. Đã có thời người ta cho rằng cõi mộng là sự thoát tục, đối lập với thực tế. Thực ra lý luận về phản ánh hiện thực đối với quá trình sáng tạo thi ca của nhà thơ thật chẳng khác gì việc nhốt gió, mây, trăng, sao vào chiếc rọ chật hẹp tù hãm. Lịch sử thi ca đã minh chứng rằng tất cả các trường phái ấn tượng, siêu thực, tượng trưng, lãng mạn và hiện thực cũng chỉ là “bước quá độ” của hành trình thi ca hướng về xứ mộng với nguồn thơ tràn đầy năng lượng tâm linh, ẩn chứa cả cái mộng và cái thực, vén mở và hòa nhập với cõi uyên nguyên bí ẩn của vũ trụ.

Sự sáng tạo của nhà thơ trên hành trình đi đến xứ mộng chính là sự “vượt thoát” của bản ngã qua mọi rào cản, ranh giới và hố thẳm để hòa nhập với hồn của tạo vật và vũ trụ. Nhà thơ nhắp cho chiếc lá, hòn đá và cánh chim hơi ấm của linh hồn vừa như một sự ân sủng vừa như một sự trả ơn. Thi hào Puskin và Victo Hugo từng bị lưu đày theo đúng nghĩa đen nhưng hai ông vẫn “vượt thoát” khỏi chốn tăm tối của tù ngục để hướng về cõi mộng mơ thẳm sâu của tâm hồn, vũ trụ và đã để lại cho hậu thế những bài thơ bất hủ. Đấy chính là một trong vô vàn biểu hiện về sự “lưu đày” xứ mộng của nhà thơ vào sâu thẳm tâm linh và tạo vật…

Ngôn ngữ thi ca của nhà thơ hàm chứa sự bí ẩn với những hình ảnh như trong một giấc mơ, được sắp xếp, liên hệ với nhau theo một cơ cấu riêng mà lý trí thường không thể giải mã nổi. Trong quá trình tiếp nhận, ngôn ngữ và hình tượng thi ca sẽ “phát sáng” trong trường mộng mơ của tâm hồn bạn đọc. Nó sẽ chìm sâu vào tiềm thức và khuấy động tất cả những gì thẳm sâu nhất của tâm hồn. Khi ấy xứ mộng của nhà thơ lại hồi sinh và giao hòa với cõi mộng của tâm linh con người.

Mỹ Tho, tháng 7-97
V.T.C
(132/02-2000)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐINH VĂN TUẤN

    Trong số mấy bài thơ chữ Nôm còn lại của Bà Huyện Thanh Quan, bài thơ “Qua Đèo Ngang” là bài thơ gần đây được tranh luận nhiều nhất về chữ nghĩa, đặc biệt là về từ ngữ “cái gia gia”(1).

  • KHẾ IÊM

    Tựa đề về cái chết của hậu hiện đại không có gì mới vì đã có khá nhiều bài viết bàn về vấn đề này, từ những đầu thập niên 1990. Nhưng bài viết đã phác họa cho chúng ta thấy đời sống văn hóa trong thời đại sau chủ nghĩa hậu hiện đại với sự xuất hiện những phương tiện công nghệ mới. Lạc quan hay bi quan, chúng ta chưa biết, nhưng rõ ràng những hệ tư tưởng cũ đang dần dần bị tàn phai nơi những thế hệ mới.

  • ALAN KIRBY

    LTS: Alan Kirby nói chủ nghĩa hậu hiện đại đã chết và đã được chôn. Tới thế chỗ của nó là một hệ hình mới của thẩm quyền và kiến thức được hình thành dưới áp lực của những công nghệ mới và các lực lượng xã hội đương đại. Tựa đề bài tiểu luận, lần đầu tiên xuất hiện trên tạp chí Philosophy Now (Triết học Bây giờ) ở Anh, số 58, năm 2006, và sau đó được in trong cuốn “Digimodernism: How New Technologies Dismantle the Postmodern and Reconfigure Our Culture”, được Continuum xuất bản vào năm 2009.

  • LÊ QUỐC HIẾU

    Trong các bộ phận của khoa nghiên cứu văn học Việt Nam hiện nay, không thể phủ nhận lý luận, phê bình là lĩnh vực có nhiều thay đổi rõ rệt. Một loạt những công trình nghiên cứu lịch sử lí luận, phê bình văn học “trình làng” trong những năm qua[1], đủ để nhận thấy tham vọng khái quát, đánh giá của các nhà nghiên cứu sau mỗi chặng đường phát triển của văn học.

  • THÁI KIM LAN
    I.
    Bài viết này được mở đầu bằng một trải nghiệm tự thân, từ chỗ đứng của chủ thể thực hành nói ra kinh nghiệm của mình, vì thế có thể gây ấn tượng về tính chủ quan. Sự trách cứ ấy xin nhận lãnh trước, nhưng xin được tạm thời để trong dấu ngoặc.

  • LUÂN NGUYỄN

    Nhất đình sơn vũ luyện hoa khai
                 (Mộ xuân tức sự - Nguyễn Trãi)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    (Trích tham luận tại Hội thảo "Văn học trước yêu cầu đổi mới" tháng 12-1987)

  • BỬU CHỈ

    Đã từ lâu tôi vẫn nghĩ và tin rằng: quê hương của nghệ thuật là Tự Do, và nghệ thuật đích thực phải thoát thai từ những con người sáng tạo có đầy đủ quyền làm người, cùng tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội của họ; và lớn hơn nữa là đối với con người.

  • LÊ QUANG THÁI

    Năm Quý Tỵ đã trôi qua, Xuân Giáp Ngọ đã về:
    Rắn trườn đã hết năm,/ Ngựa hay đưa Xuân về.(1)

  • ĐỖ LAI THÚY

    Kìa ai chín suối xương không nát
    Ắt hẳn nghìn thu tiếng vẫn còn
                   
    (Nguyễn Khuyến)

  • TRẦN HUYỀN TRÂN

    Có lẽ, Cám dỗ cuối cùng của Chúa là cuốn tiểu thuyết nói về khoái lạc trần tục của Jesus một cách táo bạo nhất?

  • NGUYỄN DƯ

    Hôm ấy bạn bè họp mặt ăn uống. Chuyện nổ như bắp rang. Tôi khoe mình đã từng ba lần đội trời đạp đất trên đỉnh đèo Hải Vân. Một bạn hỏi đèo Hải Vân có gì đặc biệt? Câu hỏi bất ngờ làm tôi cụt hứng. Ừ nhỉ… đèo Hải Vân có gì đặc biệt?

  • PHAN TUẤN ANH

    “Lịch sử như là đem lại ý nghĩa cho cái vô nghĩa”
                                                               (T.Lessing)

  • Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.

  • NGUYỄN THỊ TỊNH THY

    Sau khi đọc bài trao đổi của Triệu Sơn trên tạp chí Sông Hương số 10/2013 về bài viết của tôi trên tạp chí Sông Hương số 8/2013, tôi xin có mấy ý trả lời như sau:

  • PHAN NGỌC

    Trong quyển "Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều", tôi có dùng một số thuật ngữ chuyên môn. Trong phạm vi quyển sách tôi không thể trình bày kỹ cách hiểu của mình, cho nên có sự hiểu lầm. Giờ tôi xin trình bày kỹ hơn khái niệm "thức nhận", cơ sở của tác phẩm, để bạn đọc dễ đánh giá hơn.

  • YẾN THANH

    Trong bài viết này, chúng tôi muốn nhìn nhận những cống hiến của GS.TS Lê Huy Bắc trên lĩnh vực khoa học, đây là những thành tựu mà theo chúng tôi, vừa có tính lan tỏa, lại vừa có tính bền vững. Bởi vì, có thể nhiều học viên, nhà nghiên cứu dù không trực tiếp được nhà khoa học giảng dạy, hướng dẫn, nhưng từ những công trình, bài báo khoa học, vẫn được kế thừa và chịu sự tác động từ người thầy đó. 

  • TRIỆU SƠN

    Bài này nhằm trao đổi với tác giả Nguyễn Thị Tịnh Thy về những bất cập của nghiên cứu, phê bình văn học hiện nay nhân đọc bài “Những bất cập và thái quá trong nghiên cứu văn học hiện nay” của tác giả trên Sông Hương, 294/08-13.

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH

    Được Bakhtin đề xuất trong công trình nghiên cứu về sáng tác của Frăngxoa Rabơle, thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực nghịch dị (grotesque realism) là sự định danh ước lệ cho một kiểu hình tượng đặc thù (hay phương pháp xây dựng hình tượng đặc thù) của nền văn hóa trào tiếu dân gian, kiểu hình tượng nghịch dị.

  • LTS: Phạm Phú Uyên Châu, bút danh Meggie Phạm, sinh năm 1991, hội viên trẻ nhất của Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, tác giả của bộ truyện dài liên hoàn do Nxb. Trẻ ấn hành: Hoàng tử và em (2011, tái bản 2011), Giám đốc và em (2011, tái bản 2012), Chàng và em (2012, tái bản 2012), Người xa lạ và em (2012) và Tôi và em (đang in).