Vậy là nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh đã về cõi thiên thu giữa một sáng mùa thu Hà Nội lay phay gió mù u!...Trước khi chưa kịp được vuốt mắt, dường như đôi đồng tử của ông vẫn còn lưu giữ lại hình ảnh đau đáu về con sông Cụt quê nhà.
Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh (bên trái) tại nhà riêng tác giả bài viết
Đó là con sông đã tắm gội cho ông ngay cái buổi đầu đời mộc dục, đã mách bảo ông bao dự định và cho ông vay mượn hẳn tám mươi năm luân lạc giữa cõi người mà làm thơ, đóng kịch, viết lời bình khắp sân khấu thế gian:
Thi sĩ Phạm Ngọc Cảnh sinh năm Giáp Tuất (1934) tại xóm cửa Hữu , phường Tân Giang, thành phố Hà Tĩnh. Thân sinh của ông là cụ đội Chung từng đi lính khố đỏ cho Pháp, đồn trú tại thành Hà Tĩnh trước cách mạng. Mặc dầu, từ trong đồn ra xóm cửa Hữu chỉ cách mấy bước chân. Vậy mà, ngày Phạm Ngọc Cảnh sinh ra, Mẹ ông phải “vượt cạn” một mình dưới màm trời mưa lũ được coi là kinh hoàng nhất từng diễn ra trên sông Cụt xưa nay. Đó cũng là một phần lý do mà vòng thời gian năm Giáp Tuất (1994) quay lại, khi mẫu số chung thập can- địa chi của ông gặp nhau tại một điểm, ông đã viết bài thơ: “Năm Tuất Mẹ Sinh Con” như một lời tấu sớ thả xuống dòng trôi sông Cụt, để giải bày những tháng năm hung hạn vừa đủ gặm nhấm vòng quay về với “số mo” mà ngẫm sự đời :
Ngỡ như mẹ muốn con là Sơn Tinh năm ấy lụt/ Mẹ cõng con đi men qua cầu sông Cụt/ Rồi một đời hun hút trông theo/ Vô tích sự thằng con trai mẹ/ Năm Tuất lùi xã năm Tuất lại về/ Vô tích sự thằng con trai mẹ/ Găng cổ hát khắp rộng dài sông bể/ Câu dặm buồn năm Tuất ai nghe?
Đời thơ Phạm Ngọc Cảnh qua không biết bao sông dài, bể rộng, bao vực thẳm và truông sâu... Luôn dõi theo từng bước chân của ông, chở che cho ông và cả trừng phạt ông là hồn thiêng con sông Cụt, con sông đã mượn lấy ngòi bút của ông để kết nối với long mạch ba miền mà tấu lên khúc hoan ca muôn thủa giữa vô thường núi sông, nhưng không bao giờ quyên sự sẻ chia, an ủi với hằng hà sa số khóc khuất của bao phận kiếp nổi trôi! Trong giàn hợp xướng vĩ thanh đó chỉ cần nhắc đến các kiệt tác: Lý Ngựa Ô Hai Vùng Đất ; Sư đoàn Cô Tấm Trong Nhà; Lục Bát Trước Nhà Thờ Họ Phạm…là quá đủ để đưa ngòi bút của ông xếp vào hạng cây đa, cây đề.
Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh là người anh lớn trong một gia đình nghèo đông anh chị em. Thuở thiếu thời, ông từng đi bán dạo thuốc lào, lạc luộc và kẹ kéo…khắp phố phường ở thị xã Hà Tĩnh mà ông quen gọi là “Thành Sen quê choa”... Năm Đinh Hợi (1947), trong một lần ông đi bán dạo như thế cho khán giả xem đội văn nghệ Trung đoàn 103 Bộ đội ta biểu diễn tại thị xã Hà Tĩnh. Không biết ông có mối liên quan nào từ kiếp nào với thi sĩ Hoàng Cầm? Nhưng ngay lần đầu tiên bắt gặp chị văn công má ửng đỏ biểu diễn trên sân khấu, ông đã đứng ngẩn người, đến nỗi cả mẹt lạc tuột khỏi tay lúc nào không biết. Rất hay, thời đó lạc được xâu từng dây bằng cật giang, mỗi xâu khoảng 30 củ, không phải xúc rời từng bơ, từng đĩa như giờ. Và cũng phải nhờ được một người bạn cùng nghề bán dạo thấy thế, nhặt giúp cho trả lại. Dĩ nhiên, cả mẹt lạc của ông hôm đó bị ế ẩm.
Mặc dù mới mười ba tuổi, nhưng tâm hồn nghệ sĩ của ông được thôi thúc ngay trong lần đầu tiên xem biểu diễn của Đội văn nghệ Bộ đội, khiến đêm đó ông không tài nào chớp mắt được. Sáng dậy, ông nhất quyết đòi bố xin cho nhập vào Vệ quốc đoàn làm liên lạc và kéo phông màn phục vụ công diễn văn nghệ. Lúc đó, bố ông làm anh nuôi của Trung đoàn 103 không có cách gì từ chối được quyết tâm của ông, nên cụ đã dắt con đến gặp thủ trưởng trình bày và ông được biên chế vào đơn vị ngay. Và từ đó, dần dần ông trở thành diễn viên, thành nhà thơ, nhà viết lời bình phim… lúc nào, chính ông cũng không nhớ rõ! Có một điều cần phải ghi nhận, là ông đã vận động bằng chính đôi chân và tài năng thiên bẩm của mình.
Tôi có rất nhiều kỷ niệm với nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh. Nhất là giai đoạn khó khăn, vợ chồng phải mưu sinh bằng ghề bán gân vó bò. Hồi đó nhà tôi gần nhà em trai ông là liệt sỹ Nguyễn Ngọc Thứ ở xóm Cữa Hữu- Lê Bình. Mỗi lần về thắp hương cho em trai, ông thường ghé sang tôi uống rượu thâu đêm và ngủ lại dưới nền chiếu đất. Bởi nhà tôi chỉ có một cái chạn, phần đất nền chật chỉ đủ dành làm quán, nên không kê giường. Ông vừa coi tôi như một đứa con, vì ông là bạn bè cùng tuổi và cùng xóm phố với mẹ tôi; vừa coi tôi như một người em, vì tôi chơi thân với cô Hợi em út của ông; vừa coi tôi như một đồng nghiệp, mặc dù ông là người hướng tôi vào con đường sáng tạo và giới thiệu thơ tôi trên tạp chí Văn nghệ quân đội.
Ông từng nói với tôi rằng: Bà đội Chung- Mẹ ông chỉ với một cuộn sợi vải Thạch Đồng trên tay mà nuôi cả nhà thì không có gì không làm được như ông từng thổ lộ trong một bài thơ báo Tết những năm 60: Mấy vuông vải Đồng Môn/ Tất tưởng quanh năm cho con áo Tết/ Dăm đòn bánh tét/ Lá dong xanh gói nợ gói nần/ Mẹ vẫn cười dù đói nghèo níu gót tận sang canh…
Quan trọng nhất là muốn làm được cái gì thì trước hết cần phải coi mọi thứ chỉ là phù phiếm. Khác với nhiều người, mỗi lần về quê ông chỉ nghỉ lại ở nhà anh em và bạn bè. Bất đắc dĩ lắm, ông mới thuê khách sạn, phòng trọ. Thời mẹ ông còn sống thì nhất thiết kiểu gì ông cũng về ngủ với mẹ trong căn nhà nhỏ hai gian được chính quyền thành phố xây cho mẹ ông tại phường Bắc Hà, theo diện đối tượng chính sách.
Thi sĩ Phạm Ngọc Cảnh không tìm đến vật chất, mà vật chất cũng chỉ tìm đến ông với cái giá quá đắt so với sức lao động bằng bút lực của ông.
Vợ ông- cô Vũ Thị Tỵ kém ông ba tuổi là một người phụ nữ nết na xinh đẹp ở đất Hà Thành. Cô từng làm diễn viên múa tại Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị. Vậy nhưng, ông trời quá nghiệt ngã đã bắt cô phải chịu cảnh bại liệt nằm một nơi suốt hai mươi năm trời, trong một căn hộ cấp 4 thuộc Khu tập thể Nhà máy gỗ diêm Cầu Đuống từ năm 1985 đến năm 2005. Đó là căn hộ cô được cấp sau khi chuyển ngành về công tác tại Nhà máy gỗ diêm Cầu Đuống. Trong quãng thời gian đó, trên đôi vai của thi sĩ Phạm Ngọc Cảnh vừa phải đảm đang việc chăm sóc vợ, vừa viết như điên để đổi lấy đồng tiền.
Sau khi vợ ông qua đời cuối năm 2005, đúng 50 ngày lễ thất tuần của vợ thì đột ngột ông gặp phải cơn tai biến lần thứ nhất. Như một cơ duyên, bỗng dưng ngày đó có một người phụ nữ ở xứ Thanh kém ông tới 28 tuổi xuất hiện. Người phụ nữ xứ thanh vì mê tài năng của ông trước đó, đã tự nguyện làm một người Ôsin vĩ đại nhất mà tôi chưa từng thấy, kể cả trong phim ảnh và cả trong trí tưởng tượng. Người đó đến với ông, không chỉ làm thay cái việc mà ông đã từng làm đối với vợ ông suốt hai mươi năm trước, mà còn hơn thế nữa!
Bây giờ thì thi sĩ Phạm Ngọc Cảnh đã vãng sanh vào ngày 21/10/ 2014 ( 28/9 AL Giáp Ngọ). Quá thương! Qúa tiếc nhớ!.. Cây nhang tiễn biệt lần cuối đưa ông ra đài hóa thân hoàn vũ đã tắt, nhưng có lẽ nén hương trong lòng tôi dành cho ông vẫn luôn âm ỉ cháy mãi… cháy mãi… cho tới một ngày nào đó, tôi lại sẽ trở về gối giấc bên con sông Cụt quê ông và tôi.
Nguồn: Nguyễn Ngọc Vượng - Dân Trí
THANH TÙNG
Nhạc sĩ Phạm Duy không phải người Huế, nhưng qua những lần dừng lại ở Huế ông đã cho ra đời nhiều giai điệu trữ tình và nhiều hình ảnh đẹp, sâu lắng, trong đó thấp thoáng nhiều bóng hồng xứ Huế.
NGUYỄN QUANG HÀ
Để giữ gìn thành phố Huế, chính quyền miền Nam tổ chức nhiều đồn bốt để bảo vệ. Ở phía Nam Huế có đồn An Cựu gần núi Ngự Bình.
HUY CẬN - XUÂN DIỆU
(Trích)
DƯƠNG PHƯỚC THU
Ngày 22/7/2021, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức buổi tọa đàm khoa học lấy ý kiến cho Đề án xây dựng Phòng Truyền thống Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế, kể từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay.
DƯƠNG HOÀNG
Trải qua những năm tháng đấu tranh giải phóng dân tộc tập hợp dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Thống nhất, nhân dân Thừa Thiên Huế đã từng bước được rèn luyện, thử thách trong gian khó và cùng lớn lên với những tên gọi, những hoạt động, nhiệm vụ cũng thay đổi qua từng giai đoạn để phù hợp hơn với hoàn cảnh thực tại của phong trào cách mạng.
HÀ KHÁNH LINH
Còn sống sót sau 30/4/1975 chúng tôi thường tìm đến nhau dẫu có người thân thể không còn nguyên vẹn, hoặc mắc một số bệnh nào đó do di chứng của chất độc hóa học màu da cam Diocine của Mỹ, hoặc bị sốt rét ác tính, hoặc bị tra tấn khi rơi vào tay giặc…
NGUYỄN QUANG HÀ
Chừng 9 giờ tối anh em du kích ra đón chúng tôi ở nghĩa trang làng.
PHƯỚC HOÀNG
Ngày 23 tháng 8 năm 1945, tại sân vận động Huế, trước sự chứng kiến của hơn một vạn người, nhà thơ Tố Hữu, Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên tuyên bố, chính quyền đã về tay nhân dân, đồng thời ra mắt Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời Thừa Thiên.
MẶC HY
(Nhớ về nhạc sĩ Nguyễn Hồng và các bạn văn nghệ hy sinh 40 năm trước)
MINH ĐẠO
Khi tôi viết nhưng dòng này, tôi không còn nhìn thấy gì nữa. Bóng tối bao phủ lấy tôi đã 10 năm qua rồi.
DƯƠNG PHƯỚC THU
Nhà báo - Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tên khai sinh Võ Giáp, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911, tại làng An Xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho yêu nước, mà thân phụ là một “thầy đồ” trường huyện.
XUÂN HOÀNG
Hồi ký
(Trích Chương V, tập II - "Trường tư thục Thuận Hóa")
PHẠM PHÚ PHONG
Người già thường hay nghĩ ngợi về quá khứ. Không biết có phải vì thế hay không mà khi đọc lại Biên niên Sông Hương[1], tôi bỗng nhớ đến một cuộc hội thảo về Tạp chí Sông Hương diễn ra cách đây gần tròn 37 năm.
VŨ THỊ THANH LOAN
1. Lemur Nguyễn Cát Tường là một họa sĩ trẻ tài năng của khóa IV trường Mỹ thuật Đông Dương (1928 - 1933). Sau khi tốt nghiệp, ông thường xuyên cộng tác với báo Phong Hóa, Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn.
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Chiếc áo dài đầu tiên đời tôi được mẹ may vào năm tôi lên Đệ Thất (lớp 6 bây giờ). Biết nói sao niềm vui sướng của tôi khi lần đầu mặc chiếc áo dài ấy!
TRẦN TRUNG SÁNG
Khoảng mùa đông 1970 - 1971, khi đang còn đang học lớp 10, trong một chuyến phiêu lưu lãng mạn và rồ dại nhất của tuổi thiếu niên, tôi có lần lạc bước đến một xóm nhỏ gần bên cầu Gia Hội, và đã gặp ông: họa sĩ Lê Vinh, người họa sĩ vẽ tranh xi-nê lừng danh nhất xứ Huế thời bấy giờ. Lúc này, ông chừng độ tuổi 30, người dong dỏng, tóc vuốt ngược, sơmi màu, quần jean, giày cổ cao, dáng dấp phong trần, như bước ra từ màn bạc!
HOÀNG PHƯỚC
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, cuộc bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám đã thành công rực rỡ, tiếp đó, ngày 24 tháng 2 năm 1946, cử tri toàn tỉnh Thừa Thiên phấn khởi nô nức đi bầu Hội đồng Nhân dân tỉnh và Hội đồng Nhân dân thành phố Huế. Đây là ngày hội lớn chưa từng có trong lịch sử của toàn thể Nhân dân Việt Nam sau ngày đất nước được độc lập.
TRẦN NGUYÊN HÀO
Năm 1946, lần đầu tiên toàn thể người dân Việt Nam được hưởng và thực thi quyền làm chủ, tự do lựa chọn bầu ra những người đại diện xứng đáng gánh vác công việc chung của đất nước; cùng với đó là những tư tưởng về dân chủ, pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại bài học giá trị cho mai sau.