“Như vậy đó, hiện đại và hoang sơ, bí ẩn và cởi mở, giàu có và khó nghèo chen lẫn, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện lên trước mắt ta, ngồn ngộn sức sống”. Nhà báo, nhà văn Phan Quang đã thốt lên như vậy cách đây gần 40 năm, khi ông lần đầu đặt chân đến vùng đồng bằng châu thổ. Những điều ông viết về ĐBSCL ngày ấy - bây giờ còn tươi mới tính thời sự, lan tỏa và trường tồn với thời gian.
Tác phẩm Đồng bằng sông Cửu Long của tác giả Phan Quang tái bản lần thứ 5 (Nhà Xuất bản Lao Động, 2014) được điều chỉnh, cập nhật, có sức hấp dẫn cả về giá trị nghiên cứu và thực tiễn đời sống, vẫn hiện lên trước mắt ta, ngồn ngộn sức sống, như Phan Quang đã từng nói về vùng châu thổ này.
Trước hết, xin được bày tỏ sự kính trọng, ngưỡng mộ nhà báo, nhà văn Phan Quang, người cầm bút sắc sảo, cần mẫn, lao động nghiêm túc, trách nhiệm xã hội luôn đong đầy, một trong những đại thụ của báo chí Việt Nam đương đại. Đã ở tuổi xưa nay hiếm mà đều đặn mỗi năm ông vẫn cho ra vài ba đầu sách. Ông từng khích lệ bạn bè, đồng nghiệp: “Viết được gì thì cứ viết. Giả dụ viết chưa được hay để cộng đồng, xã hội cùng đọc, thì viết cho bạn bè, người thân, cho chính mình xem”. Khá nhiều đồng nghiệp lớp ít tuổi hơn đã theo gương ông, viết những điều về bạn bè, đồng nghiệp, về đất nước, con người Việt Nam hào khí.
Phan Quang viết khỏe, viết đều như chính cuộc đời ông sinh ra là để viết. Sắp vào tuổi 90, ông vẫn minh mẫn, uyên bác, trí nhớ tuyệt vời. Đồng bằng sông Cửu Long là tập bút ký chuyên về Nam bộ, đến mức cố nhà văn, nhà nghiên cứu Nam bộ Sơn Nam khi được Phan Quang mời đọc bản thảo lần đầu và góp ý điều chỉnh giúp các địa danh Nam bộ cho thật đúng, đã thốt lên: “Phan Quang đã hóa thân công phu, trách nhiệm, thắm nghĩa tình vào từng con chữ về miệt vườn Nam bộ”.
Phan Quang bước vào nghề báo năm 1948 tại báo Cứu Quốc Liên khu IV xuất bản hàng ngày thời kháng chiến chống Pháp. Hòa bình lập lại, năm 1954 ông được điều về báo Nhân Dân, cơ quan trung ương của Đảng. Những năm tháng làm việc ở báo Nhân Dân - Trưởng ban Nông nghiệp và Nông thôn, Trưởng ban Kinh tế, Ủy viên Ban biên tập… Sau đó, ông giữ nhiều trọng trách khác nhau: Vụ trưởng Vụ Báo chí Ban Tuyên huấn Trung ương; Thứ trưởng Bộ Thông tin; Tổng Giám đốc - Tổng biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam; Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội; Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam v.v... Ở cương vị công tác nào, kể cả khi ông làm nhiệm vụ quản lý báo chí và đối ngoại, nhà báo, nhà văn Phan Quang vẫn mải miết đi và viết. Ông thâm nhập cuộc sống, đến với nhân dân, đến với nhiều vùng miền của đất nước, kiên trì đọc - đi - nghĩ - viết, như chính ông hằng tâm sự. Nếu tính từ bài báo đầu tiên in năm 1948, tập truyện ngắn đầu tay do Nhà Xuất bản Minh Đức ấn hành năm 1954, đến nay Phan Quang đã cầm bút liên tục 66 năm, để lại khối lượng gần bốn chục tác phẩm xuất bản và rất nhiều bài báo ngắn, dài. Bộ truyện cổ Ả Rập nổi tiếng Nghìn lẻ một đêm, và 20 năm sau bộ truyện cổ Ba Tư Nghìn lẻ một ngày do ông chuyển ngữ, đến nay đã tái bản 34 lần.
Sau năm 1975, non sông thu về một mối, ngòi bút Phan Quang thỏa sức tung hoành khắp Bắc - Trung - Nam. Những bút ký báo chí thấm đậm chất văn học của ông, khi ở Bình Trị Thiên, Quảng Nam - Đà Nẵng, lúc ở Đà Lạt - Lâm Đồng, Tây Ninh, khi ở TPHCM, vùng ĐBSCL… Phan Quang dành nhiều tâm huyết cho quê hương Quảng Trị, vùng đất khói lửa, nghèo khó nhưng rất đỗi kiên trung. Tấm lòng sâu nặng với quê hương, nhiều bài viết về miền quê Quảng Trị da diết, thấm đậm tình người, tình quê, giàu chất thơ ca.
Một số lần đến nhà riêng của ông ở quận Đống Đa, Hà Nội, ngắm nhìn những tủ sách của ông, xem cung cách ông làm tư liệu báo chí, tôi và nhiều đồng nghiệp hậu sinh tâm phục, nể trọng về sức làm việc, trách nhiệm xã hội của người cầm bút. Ông làm tư liệu công phu, tỉ mỉ, khoa học. Cần bất cứ tài liệu gì, chỉ trong vòng dăm ba phút, ông đã tìm được ngay từ đống hồ sơ lưu giữ. Tôi hỏi ông, cuốn sách Đồng bằng sông Cửu Long giàu tư liệu, ngồn ngộn thông tin, bằng cách nào trong một thời gian ngắn, ông đã có những tư liệu đó. Ông trả lời: “Đọc, đi, nghĩ, viết”. Có vấn đề gì đó chưa tỏ ngọn ngành, tôi vào thư viện lục tìm, khảo cứu từ sách báo nước ngoài, hỏi han các lão nông tri điền bản địa. Biết mười viết một. Cái gì chưa nắm chắc, dứt khoát không viết”.
Chắc chắn những ai cần tìm hiểu đất và người vùng đồng bằng Nam bộ, không thể không đọc “Đồng bằng sông Cửu Long” của nhà báo, nhà văn Phan Quang. Ngòi bút của Phan Quang miêu tả sống động vùng đất mới, giàu tiềm năng: Đồng bằng sông Cửu Long. Những bài viết đặc sắc, giàu thông tin, tự nó đã khẳng định sự phong phú, đa dạng của tập bút ký tràn đầy hơi thở cuộc sống: Dải đất đa dạng ẩn giấu nhiều bí tàng của trời đất; Cửu Long sông Mẹ và những tặng phẩm của thiên nhiên; Vùng lúa hình thành qua nước mắt và mồ hôi; Ruộng và người làm ruộng; Trong cảnh lúa đầy đồng, cá đầy ruộng; Một vùng đầy trái ngược; Qua những tên đất, tên sông; Nghĩ về tính cách con người… Tập bút ký Đồng bằng sông Cửu Long dày gần 500 trang là một công trình lao động nghiêm túc, đầy trách nhiệm, rất tân văn mà cũng rất văn học. Trái tim Phan Quang, tình yêu của Phan Quang về vùng đồng bằng châu thổ hiện hữu trong từng con chữ. Miêu tả kết hợp với tư liệu khảo cứu, những số liệu cần thiết xác đáng làm cho những bài bút ký của ông luôn giàu thông tin. Ông miêu tả kênh rạch, cảnh trời mây nước miệt vườn - đặc trưng đồng bằng châu thổ không thể trộn lẫn. Đó là khoảng không gian hào hùng của lịch sử thời mở cõi, truyền thống anh hùng chiến đấu chống giặc ngoại xâm, nền văn hóa bản địa, phong tục, tập quán, cốt cách con người Nam bộ, để từ đó ông khái quát thành điểm nhấn về dải đất đa dạng, đan xen quá khứ - hiện tại - tương lai, từ chiều sâu nhân cách, từ cội rễ ngọn nguồn: “Suốt mấy nghìn năm kể từ ngày dựng nước, ông cha ta đã bám chắc mảnh đất quê hương, khai phá ruộng đất, cải tạo thiên nhiên để nuôi sống mình và qua đó từng bước mở mang bờ cõi, xây dựng cơ đồ để lại cho con cháu muôn đời về sau. Một tay cầm chiếc cuốc vỡ hoang, một tay nắm thanh gươm giữ nước, không có hình ảnh nào diễn tả chân xác lịch sử hơn” (Trang 141).
Nghĩ về tính cách con người (Nam bộ), Phan Quang khảo cứu, sử dụng cứ liệu lịch sử, đặc điểm cư dân, xuất phát từ điều kiện tự nhiên - xã hội - điều kiện lịch sử một cách biện chứng, từ đó qua phân tích và cảm nhận của mình vẽ nên tính cách - chân dung con người vùng châu thổ có chiều sâu. Năm đặc điểm nổi bật trong tính cách của người nông dân Nam bộ, theo Phan Quang là: “Lòng yêu nước nồng nàn và kiên định; Dũng cảm, ngang tàng, phóng khoáng; Hiếu khách, trọng nghĩa khinh tài; Sẵn sàng tiếp thu cái mới; Bộc trực, ăn nói thẳng thắn, ít khi văn hoa, rào đón” (Trang 463 - 477).
Không tính về văn học, ông đã in một số tập truyện ngắn, truyện vừa, phóng tác… Về báo chí, Phan Quang viết đủ thể loại. Thế mạnh hơn cả ở ông là bút ký. Báo Tuổi Trẻ (số ra ngày 6-11-1980) nhận định: “Ta thường đọc ký văn học của Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, ký chính luận của Thép Mới, ký mang tính triết lý của Chế Lan Viên…, khoảng mấy năm gần đây đã xuất hiện thêm một loại ký khá đặc biệt, ký nghiêng về các chủ đề kinh tế (mà Đồng bằng sông Cửu Long là tác phẩm tiêu biểu). Người viết: Phan Quang”.
Những năm tháng làm công tác quản lý và đối ngoại, kết hợp những chuyến đi công tác nước ngoài, Phan Quang viết nhiều bút ký lữ hành (du ký), tập hợp tại mấy tập: Thơ thẩn Paris, Bên mộ vua Tần, Chia tay trên sông… Về già, hoài niệm bạn bè, ông lại viết bút ký chân dung: Những người tôi quý mến, Thương nhớ vẫn còn.
Xin được chúc mừng nhà báo, nhà văn Phan Quang, tuổi cao nhưng sức viết vẫn dồi dào, bầu máu nóng từ con tim yêu nghề - say nghề vẫn như ngày nào. Huỳnh Hùng Lý, một đồng nghiệp cùng thời với ông ở Báo Nhân Dân, có lần tâm sự với Phan Quang: Chúng ta đang rượt đuổi thời gian. Phan Quang khiêm nhường đáp lời người bạn già: “Tôi tự dặn phải cố gắng. Cố gắng nhiều hơn nữa, may ra mới không phụ lòng những tấm lòng tri ngộ. Tiếc thay, quỹ thời gian của tôi không còn. Lực bất tòng tâm, quy luật tự nhiên càng không cho phép. Chỉ còn cách cúi đầu tri ân”. “Lão tướng” Phan Quang trong làng báo, làng văn là vậy. Phía trước nhà báo, nhà văn Phan Quang còn bao dự định ấp ủ đang… rượt đuổi thời gian.
Nguồn: PHẠM QUỐC TOÀN - SGGP
NGUYỄN HỒNG TRÂNNữ sĩ Tương Phố tên thật là Đỗ Thị Đàm sinh ngày 14/7/1900, nguyên quán ở xã Bối Khê, tổng Cẩm Khê, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên và mất ngày 8/11/1973 tại Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
TRƯỜNG KÝ(“Nụ cười Áp-xara”: Truyện ký của Hà Khánh Linh, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1983)
PHẠM PHÚ PHONGChính cái bìa tập truyện ngắn là Sứ giả Việt Hùng do hoạ sĩ Đinh Khắc Thịnh trình bày đã gợi ý tưởng cho tôi viết bài này, sau khi đọc đi đọc lại vài lần tập truyện ngắn gồm có chín truyện của Việt Hùng - chín truyện ngắn anh viết trong vòng hơn mười hai năm, kể từ khi tập truyện ngắn đầu tay Cô gái hoàng hôn (1997, cũng gồm có chín truyện ngắn), ra đời cho đến nay.
Ý THIỆNVào ngày 27, 28 tháng 7 năm 2001, tại chùa Từ Đàm - Huế đã diễn ra Lễ kỷ niệm 50 năm ngày Gia đình Phật Hoá Phổ - tổ chức tiền thân của Gia Đình Phật tử Việt Nam, với hơn 3000 đoàn sinh về tham dự. Sự kiện này đã thu hút sự chú ý của nhiều tầng lớp nhân dân thành phố Huế cũng như phật tử khắp nơi trên đất nước.
NGUYỄN ĐỨC TÙNGNguyễn Đức Tùng: Chào nhà thơ và cô giáo dạy văn Đinh Thị Như Thúy. Được biết chị đang sống và làm việc ở một huyện thuộc tỉnh Đắc Lắc. Chị có tìm thấy cho mình một quê hương ở đó không?
ĐINH XUÂN LÂM - VÕ VĂN SẠCHTrong khi khai thác tư liệu về phong trào đấu tranh yêu nước chống xâm lược Pháp hồi cuối thế kỷ XIX của nhân dân ta tại Cục lưu trữ Trung ương, chúng tôi có tìm được hai bài thơ nôm của vua Hàm Nghi ban cho các quân thứ Bắc kỳ.
HỒ THẾ HÀKỷ niệm 8 năm ngày mất nhà thơ Tố Hữu (9-12-2002 - 9-12-2010)
NGUYỄN NHÃ TIÊNTừ buổi trình làng tập thơ “Bông hồng ngủ quên”, tiếp theo là tập “Nhặt mùi hương trầm đâu đây”, cho đến bây giờ thi phẩm thứ ba của Võ Kim Ngân “Viết lúc sang mùa” vừa mới được Nxb Văn học cấp phép ấn hành tháng 7-2010.
THANH THẢO(Đọc “Bán đảo” của Thái Bá Lợi)
TRẦN HUYỀN TRÂNNgày 10 - 10, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế và Công ty Văn hóa Phương Nam đã tổ chức buổi tọa đàm về tiểu thuyết Biết đâu địa ngục thiên đường của nhà văn Nguyễn Khắc Phê. Buổi tọa đàm đã thu hút sự quan tâm sâu sắc của các nhà văn, nhà nghiên cứu và đông đảo sinh viên các trường đại học.
KIM QUYÊNSau tập thơ Ngày đầu tiên(*), nhà văn Trần Hữu Lục tiếp tục ra mắt bạn đọc tập Góc nhìn văn chương(**) và anh sẽ xuất bản tập truyện ngắn Trần Hữu Lục (tuyển chọn năm 2010). Thật là một mùa bội thu với nhà văn Trần Hữu Lục.
HỒNG DIỆU(Nhân đọc Trái tim sinh nở và Bài thơ không năm tháng *)
MAI VĂN HOANTôi cố hình dung những tháng ngày nhà văn Hồng Nhu trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh từng gắn bó đã hơn hai mươi năm với bao kỷ niệm vui buồn.
KHẢI PHONG“Thơ kỵ nhất viết điều người đã viết! Nhưng biết sao, khi tôi mến sông Cầu…Lòng khẽ nhắc: đừng nói điều đã viết,Sao âm vang cứ mãi gọi: sông Cầu”
(Về cuộc thi truyện ngắn dành cho sinh viên Huế do Sông Hương tổ chức)BAN TỔ CHỨC CUỘC THINhằm tạo không khí sáng tác, phát hiện các cây bút trẻ Huế, trong khuôn khổ Chương trình Phát triển Tài năng Trẻ, Tạp chí Sông Hương tổ chức Cuộc thi truyện ngắn dành cho sinh viên đang theo học các trường đại học và cao đẳng ở Huế.
LÊ HUỆCuộc thi Truyện ngắn cho sinh viên Huế do tạp chí Sông Hương tổ chức đã thu hút được sự tham gia của rất nhiều các bạn trẻ mang trong mình khát vọng văn chương. Những truyện ngắn dự thi đã cho ta thấy được một vóc dáng mới của các cây bút trẻ Huế hiện nay: phản ánh cuộc sống đương đại từ nhiều góc cạnh bằng bút pháp tinh tế, mới mẻ, giàu trí tuệ và đầy chất thơ. Mười lăm truyện ngắn xuất sắc lọt vào chung khảo đã được tập hợp lại thành ấn phẩm mang tên “Yêu xa xa một phút”.
PHAN MINH NGỌC“Bài thơ về biển khơi” (*) là tập sáng tác đầu tay của cây bút nữ Trần Thùy Mai.
NGÔ HƯƠNG GIANGLàm thế nào để diễn giải hợp lý về Tường Thành?
KHẢI PHONGTôi đã có dịp gặp những trang thơ chân chất của Nguyễn Quang Hà trong “Tiếng gà trên đỉnh chốt”(1). Lần này gặp văn Nguyễn Quang Hà trong “Mùa xương rồng nở hoa” (2), cảm tưởng lưu lại trong tôi là văn anh gây được ấn tượng mạnh hơn thơ.
NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.