Nguyễn Trọng Tạo: chớp mắt với ngàn năm

16:21 21/07/2009
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

Nhà thơ - nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo (Ảnh: vietnam.vnanet.vn)

Cách nói Đồng dao cho thấy được ý hướng sáng tạo của Nguyễn Trọng Tạo. Thơ anh là những khúc hát ngân lên từ cõi nhớ của một kẻ nhà quê lưu lạc. Lưu lạc mà vẫn nhớ mình là nhà quê, là phương Đông chính hiệu. Vì thế, nếu có đọc thơ Tây cũng là một cách mở rộng, tham bác để cho cái chất nhà quê vừa gắn với cổ điển, vừa đáp ứng được nhu cầu hiện đại. Hai câu thơ trên đây khép lại bài thơ mà cũng là để mở ra về phía “ngàn năm” từ cái “chớp mắt” khóc cười nghệ sĩ. Những câu thơ đẫm niềm riêng nhưng cũng là những tri nghiệm khóc cười nhân thế. Nó như bật ra từ tuệ nhãn, vừa mới mẻ vừa mang theo cái uyên súc Đường thi. Đó là một kiểu chiêm nghiệm, một cách nói khác của Bùi Giáng: Bây giờ riêng đối diện tôi- Còn hai con mắt khóc người một con.  Nói thế để thấy rằng Nguyễn Trọng Tạo đã biết lắng lại và tự giác ngộ mình trước cõi tham- sân- si trần tục. Mối tương quan giữa chớp mắtngàn năm đẩy cảm xúc lên tầm mỹ học về nhân sinh qua cái nhìn của một người biết mình cũng đầy ưu, nhược như ai. Nhưng người thơ ấy biết tự dặn mình coi thơ như một tôn giáo, đứng trước thơ phải thanh khiết và để lại sau lưng những phiền lụy không đâu. Là một thi sĩ có ý thức đổi mới, Nguyễn Trọng Tạo thấu hiểu một cách sâu sắc, rằng, sự sống còn của người viết là phải nương thân vào chữ nghĩa. Nơi ấy, hồn nằm trong xácxác ngụ trong hồn. Không còn cách nào khác, tư cách của nhà thơ chỉ có thể đo ướm bằng sự tỏa sáng của chữ. Tại đó, anh ta trình với mọi người cái vân tay vân chữ của mình trên tờ căn cước bằng giấy trắng mực đen. Hay, dở đã thuộc về kẻ khác. Mọi phân trần hay biện hộ của nhà thơ đều trở thành vô nghĩa.

Thuộc típ người tài hoa đa mang lắm mối, nhưng trước sau, hồn vía Nguyễn Trọng Tạo vẫn sống chết với thơ. Tại đây, anh dựng lên xác tín nghệ thuật của mình: “Thi ca là ngôn từ rung lên bằng âm nhạc”(2). Cấu trúc thơ Nguyễn Trọng Tạo hàm chứa rất nhiều âm nhạc là vì thế. Nhạc cất lên từ nhịp:  Chia cho em/ một đời tôi/ một cay đắng/ một niềm vui/ một buồn (Chia). Nhạc cất lên từ vần: tình trao mắt cho thơ- trời xanh mi ướt bờ- tình trao nắng cho mưa- chìm vào nhau bất ngờ (Rượu chát), từ sự bung phá một cách phóng túng để diễn tả chính sắc màu của nhịp điệu: ôi nhịp điệu- thân xác không mang nổi- ta thoát khỏi ta- như đứa trẻ thoát áo quần quá chật (Nhịp điệu Tây Nguyên)... Nhưng thủ pháp thường gặp nhất trong thơ Nguyễn Trọng Tạo là cách tổ chức điệp khúc. Điệp trong bài, điệp bằng lối hai câu song song, nương tựa nhau... Những thủ pháp ấy bắt nguồn từ niềm đam mê nhịp chẵn theo quan niệm của Nguyễn Trọng Tạo (khác với nhịp lẻ của thơ Trung Hoa). Nhưng đó không phải là kiểu hài thanh cân đối cổ điển mà trên sự cân đối ấy nhằm tạo nỗi chơi vơi trong tình điệu thẩm mỹ của anh. Với Nguyễn Trọng Tạo, hình thức điệp cú và điệp cấu trúc có khả năng đạt các hiệu quả nghệ thuật: 1- sự chặt chẽ trong cấu tứ và sự trùng phức về giai điệu; 2- sự nhòe mờ của các “vân chữ”; 3- trên cơ sở đó tạo nên những bất ngờ và bung phá. Dĩ nhiên, thủ pháp này cũng tiềm ẩn một nguy cơ: khi cảm xúc vơi hụt, tỉnh nhiều mà say ít, thơ sẽ rơi vào tình trạng ít ý nhiều lời. Hiện tượng này cũng từng xảy ra với chính Nguyễn Trọng Tạo. Nhưng trong nhiều trường hợp, Nguyễn Trọng Tạo đã kết hợp được hài hòa giữa ý tình và âm nhạc. Xin đừng hiểu rằng một khi thơ giàu nhạc thì ý tưởng bị khuất chìm. Chính các nhà tượng trưng đã từng nêu lên một tuyên ngôn bất hủ: “Âm nhạc đi trước mọi điều”. Những câu thơ sau đây của Paul Verlaine sẽ mất đi rất nhiều dư vị nếu ta tước bỏ nhạc thơ : Đang khóc trong lòng tôi- Như đang mưa trên phố- Buồn chán gì vô cớ- Đang len vào lòng tôi(3). ở nước ta, thơ Hàn Mặc Tử, Hoàng Cầm, Vũ Hoàng Chương... đều là những thế giới đầy âm nhạc. Điều quan trọng là nhạc thơ phải diễn tả được nhạc lòng, là một thành tố trong nghệ thuật tổ chức cấu trúc giọng điệu. Âm nhạc chính là một thủ pháp khiến người đọc dễ say với cái say thi sĩ vốn là một phần bản thể Nguyễn Trọng tạo. Là người ít nhiều tìm hiểu giọng điệu thi ca, tôi nghĩ, ngoài âmnghĩa dồi dào, thơ phải có giọng. Không có giọng, anh ta lập tức bị biến khỏi bản đồ thơ. Với cách hiểu như thế, tôi nghĩ, Nguyễn Trọng tạo là người có giọng điệu riêng. Nhưng cái nốt riêng ấy không tự dưng mà có. Thực lòng, tôi không tìm thấy nó ở thời “gưng mặt tôi yêu” mà phải đến những ngày khúc “đồng dao cho người lớn” ra đời, tôi mới thấy rõ đó là cách nói của Nguyễn Trọng Tạo. Những câu thơ của anh mang chất giọng tưng tửng, ngu ngơ ngỡ như chơi vơi nhưng kỳ thực chứa rất nhiều ngẫm ngợi. Một chất giọng mà khi đọc kỹ ta mới thấy hết cái da diết bên trong. Học lấy cái nhòe mờ trong thi pháp phương Đông, Nguyễn Trọng Tạo đã biết tựa vào âm nhạc để trình bày các ý tưởng của mình. Đây chính là yếu tố tạo nên chất phiêu lãng trong giọng điệu thơ anh. Phía sau những âm giai phiêu lãng ấy là chiều sâu của cảm hứng về nhân thế, là những lăn lóc thân phận. Chiều sâu mỹ cảm thi ca Nguyễn Trọng Tạo trước hết bắt nguồn từ yếu tố cơ bản này.

Là kẻ lang bang lữ thứ, tất nhiên, Nguyễn Trọng Tạo thường nói đến say: Sông Hương hóa rượu ta đến uống/ ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say (Huế 1); chín can... rượu chẳng còn đâu/ còn em hóa rượu. Cúi đầu anh say... ( Rượu cần). Đó cũng là một hình thức nhà thơ phiêu diêu về tâm tưởng, một cách lang thang trong cõi nhớ của mình. Từ làng quê xứ Nghệ đến với Huế, văn hóa Nguyễn Trọng Tạo được bồi đắp thêm một lần nữa. Có thể nói, Huế đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên hồn cốt thơ Nguyễn Trọng Tạo. Phải chăng, anh đã học được ở đây cái uyên sâu của đời sống tâm linh trầm mặc? Với cách xây tứ khá độc đáo, tôi nghĩ, Huế 1 thuộc số những bài thơ ấn tượng nhất về Huế trong thơ ca sau 1975. Những cơn say của Nguyễn Trọng Tạo cho phép anh nhìn sâu vào bản thể hồn mình, hiểu hơn về những bước chân lưu lạc của mình. Bởi thế, say còn là một hình thức tự vắt kiệt, tự đốt cháy: Tôi còn cái xác không hồn- cái chai không rượu tôi còn vỏ chai (Chia). Sống thế là đến đáy. Là dám chấp nhận. Hóa ra, ở những giây phút thăng hoa nhất, men thơ men tửu men đời đã hòa lẫn trong nhau. Nguyễn Bính xưa cũng như thế: Tôi uống hồn em và uống cả- Một trời quan tái mấy cho say. Tôi nhớ, trong căn hộ chung cư tầng sáu mà Nguyễn Trọng Tạo đang nương thân ngoài đời, có một tấm ảnh rất ấn tượng anh chụp với tiên chỉ Văn cao qua bàn tay của nhiếp ảnh gia Nguyễn Đình Toán. Chai rượu choán lấy mặt tiền của ảnh và hai kẻ tài hoa, một anh một em nâng ly mừng thơ nhạc và chia sẻ muộn phiền. Nhưng vấn đề là sau những cơn say và những ngày tháng phiêu du ấy, Nguyễn Trọng Tạo còn lại gì? Còn lại một nỗi cô đơn. Theo ý tôi, cô đơn là phần sâu nhất trong bản ngã Nguyễn Trọng Tạo. Cái mầm cô đơn ấy có đủ vị, có cả niềm cay đắng xen lẫn nỗi ngọt ngào Trái tim đã bỏ tôi đi- ai mà nhặt được gửi về giùm tôi. Một đời đuổi bắt cái đẹp hóa ra cũng là để tìm chính mình, tìm lại một nửa cái tôi đang nằm đâu đó trong đời. Tiếng gọi của tâm linh đấy chăng? Hay đó là những thầm thì của nỗi đê mê, đắm đuối tạo thành sự phân thân không định trước. Ai nghĩ gì, kệ họ. Riêng mình, nguyễn Trọng Tạo thật lòng: Tin thì tin không tin thì thôi . Những câu thơ tưng tửng, ngu ngơ và da diết này cũng là một kiểu tuyên ngôn, một cách gây sự với đám đông của Nguyễn Trọng Tạo. Nó như một chuỗi “phản đề” trước khi  nhà thơ nêu lên “chính đề” là gan ruột của người viết:

Nhưng tôi người cầm bút, than ôi
Không thể không tin gì mà viết.

Nhìn từ chiều lịch đại, Nguyễn Trọng Tạo thuộc thế hệ các nhà thơ chống Mỹ. Thơ anh cũng từng một thời phơi phới tin yêu, một thời tha thiết thật lòng mỗi chiếc lá đều ghi lời tự nguyện. Sự trong trẻo ấy thật đáng quý nhưng rõ ràng có phần đơn giản. Trong khi những cây bút như Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Mạnh Hảo...  đã được nhiều người nhớ thì Nguyễn Trọng Tạo vẫn mải miết kiếm tìm. Phần hay nhất của thơ Nguyễn Trọng Tạo nằm ở thời hậu chiến. Đây là giai đoạn Nguyễn Trọng tạo chủ trương một thứ thơ đời thường. Hướng về đời thường, thơ gần hơn với con người, những vui buồn nhân thế cũng được đề cập đến sâu sắc hơn. Theo ý tôi, mặc dù thập kỷ 80 của thế kỷ XX có sự nỗ lực đổi mới của nhiều nhà thơ, nhưng cần ghi dấu ba giọng điệu đáng chú ý: Ý Nhi, Dư Thị Hoàn, Nguyễn Trọng Tạo. Những bài thơ của họ thể hiện rất rõ sự “vỡ giọng” và sự thay đổi về tư duy nghệ thuật. Đó là quá trình tự nhận thức lại chính mình và người khác. Những thần tượng một thời giờ đây đã hết uy lực: Khi đang đắm yêu có tin được bao giờ- Rồi một ngày người yêu ta đổi dạ- Rồi một ngày thần tượng ta tan vỡ- bạn bè thân  thọc súng ở bên sườn (Tản mạn thời tôi sống). Đây là những câu thơ hàm chứa rất nhiều cay đắng ở bên trong vì nó nói về sự đổ vỡ. Mà có sự đổ vỡ nào lớn hơn là sự đổ vỡ về tình yêu và thần tượng! Sau 1975, thơ ca Việt nam từ quỹ đạo của cái ta trở về với cái tôi cá nhân. Nhưng đó không phải là cái tôi tách rời hoàn cảnh như thơ ca lãng mạn. Đó là cái tôi như một điểm tựa để nhìn về nhân thế và con người trong sự phức tạp và nhiêu khê khó lường. Góc nhìn đời tư và những dằn vặt cá nhân được quan tâm thể hiện. Những điều ấy đều có mặt trong thơ Nguyễn Trọng Tạo thời sau- thời mà cái nhìn riêng của anh được mài sắc hơn, sự thay đổi cái nhìn nghệ thuật diễn ra quyết liệt hơn: Như con chiên sùng đạo chợt bàng hoàng- Nhận ra Chúa chỉ ghép bằng đất đá. Trong hoàn cảnh ấy, con người đang tìm mình, loay hoay kiếm tìm các giá trị, đường chân trời không hẳn cứ trong veo như trước đây ta vẫn tưởng. Đây là thời điểm các cây bút phải biết xác lập vị thế của mình trong dòng chảy lịch sử. Bản lĩnh nghệ thuật của nhà thơ phải được thiết lập bằng quan niệm riêng của anh ta về đời sống. Biết bứt thoát khỏi những quy phạm nghệ thuật của thời đã qua, Nguyễn Trọng Tạo đã trổ được cái nhìn riêng về “cõi nhân gian bé tí” nhưng lại hết sức rộng lớn này với những thay đổi vừa mang tính bất thường, vừa mang tính quy luật. Tản mạn thời tôi sống (1981) là thi phẩm cho thấy cái nhìn rất nhạy cảm của nhà thơ. Đây là bài thơ được nhiều người nhớ. Có thể, những người khó tính sẽ nhận thấy ở bài thơ này mạch thơ còn dàn trải, câu chữ chưa thật chắt lọc. Đúng thế, cái hay của bài thơ không nằm nhiều ở cấu trúc hay ở sự kỳ công về  nghệ thuật mà nằm nhiều hơn ở khả năng tiên cảm chính xác và đầy chất triết lý: Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa- như thời đã đi qua như thời rồi sẽ đến. Nguyễn Trọng Tạo đã lấy hai câu thơ mang âm hưởng ví dặm để làm giai điệu nền tảng cho dòng cảm xúc “trái mùa” tản mạn của anh. Thực ra, bài thơ đâu có tản mạn, nó xoáy vào người đọc một câu hỏi buốt nhói, một vấn đề quá lớn: Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi- Câu trả lời thật chẳng dễ dàng chi. Chính vì cái câu hỏi quá riết róng ấy mà Nguyễn Trọng Tạo từng phải lao đao. Phải đến những năm đổi mới, những băn khoăn kia của Nguyễn Trọng Tạo mới được “giải oan”. Người ta bắt đầu nhận thấy một sự thật: bài thơ đã khái quát được tâm thế của một thời. Về sau, kiểu câu hỏi nhạy cảm ấy lại xuất hiện trong thơ Hữu Thỉnh: Tôi hỏi người:- Người với người sống với nhau thế nào?, trong văn xuôi Phùng Gia Lộc Cái đêm hôm ấy đêm gì?...Không quá khó khăn, người đọc nhận thấy phía sau niềm trắc ẩn kia của Nguyễn Trọng Tạo là nỗi cô đơn, đắng đót của kẻ mang bản mệnh đa đoan. Mà Nguyễn Trọng Tạo đâu có che giấu cái tôi bản thể của mình:

vẽ tôi mực rượu giấy trời
nửa say nửa tỉnh nửa cười nửa đau
vẽ tôi thơ viết nửa câu
nửa câu ma quỷ đêm sâu gọi về...
                                                   (Tự họa)

Đây là những câu thơ ngất ngưởng, đùa đấy mà cũng là thật đấy. Ngẫm ra, chỉ những ai dám là mình mới có cái ngất ngưởng, tếu táo đến  nhường ấy: vẽ tôi lặng nhớ mưa xa- tiếu lâm đời thực khóc òa chiêm bao.  Tôi nghĩ, cái khóc cười qua những dòng tự họa trên đây có phần gần gũi với tâm trạng Khi vui lại khóc, buồn tênh lại cười của cây hát nói tài danh đất Nghi Xuân Nguyễn Công Trứ. Trong thơ, nhiều khi quá cố công để tìm đến cái sâu sắc lại gặp phải sự hời hợt, trơn lỳ, bởi đó là cái “cố” bằng lý tính. nhưng nhiều khi, nhà thơ ngỡ như bất lực lại chính là lúc nẩy lên những ý lạ đến khó ngờ. “Tâm trạng nhạc tính” của người sáng tạo một khi bắt gặp những chớp lóe tư tưởng sẽ tạo nên sự bùng nổ. Điều này khiến tôi chợt nhớ đến một ý kiến rất hay của E. Weber: “Tảng đá tư tưởng rơi vào tâm trạng này và dấy lên những đợt sóng tinh thần, những đợt sóng này vươn tới sự biểu hiện bằng ngôn ngữ và sẽ phải trở thành thơ”(4). Đó là phút “giời cho”, là trạng thái “ngây ngất”, “mê sảng” như A. Pushkin có lần bày tỏ. Có lẽ trong đời, Nguyễn Trọng Tạo đã đôi lần bắt gặp giây phút “giời cho” mà Tản mạn thời tôi sống là một ví dụ điển hình. Những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo thường là những bài thơ xuất phát từ cái nhìn sâu vào bên trong, lắng nghe âm vọng đời sống qua tiếng gõ rất riêng của cái tôi “nửa khóc nửa cười” ấy. Thời gian 1 là bài thơ có những bước nhảy độc đáo về tứ:

còn chi bóc nữa?
hãy bóc hồn tôi
tôi thành tờ lịch
bóc sang luân hồi.

Khúc Sonê Buồn cũng có cách nói khá ấn tượng:

Là khi tình giấc trong đêm
Một mình ta thấy ngồi bên: nỗi buồn
Là khi cạn một ly tràn
Đáy ly ta lại thấy làn mi xanh.


Những câu thơ này ít nhất cho phép người đọc nhận thấy hai điều. Trước hết, hé ra chiều sâu của một nỗi cô đơn thường trực; thứ hai, mở ra một trường liên tưởng lớn nói về sự cô đơn và khát khao chia sẻ. Ý tưởng ấy,  đến Nguyễn Trọng Tạo, được hóa vào hồn lục bát, lấy cái duy tình để diễn tả cái duy linh: Buồn ơi Buồn có thương tôi- Đừng làm tôi phải mồ côi nỗi buồn!...Buồn là em, là người đẹp, là một nửa của tôi, là ai đến bên tôi “khít ơi là khít” như Hàn Mặc Tử xưa kia một mình trong bãi biển đầy trăng chập chờn ma mị. Nếu Đồng dao cho người lớn mở ra bước chuyển về thi pháp, đưa thơ đến với chất giọng triết lý sau cái vỏ ngu ngơ như thật như đùa thì Chia lại là một nỗ lực cách  tân của Nguyễn Trọng Tạo trên con đường làm mới thể thể lục bát. Với Nguyễn Trọng Tạo, việc cách tân không đồng nghĩa với việc phải đập vỡ và tẩy chay mỹ học truyền thống. Anh biết nâng niu di sản văn hóa quê hương và cố gắng tạo nên sự “hòa giải” giữa cái cũ và cái mới trong thơ. Bởi thế mới có chuyện “Một cây si với một cây bồ đề (Chia), con đường từ ghét đến yêu- đỏ đen sấp ngửa liêu phiêu một đời (Ví dụ 4)... Trên nền ổn định của thể loại, Nguyễn Trọng Tạo có nhiều cách xoay trở. Anh chia vần, tạo ấn tượng thị giác bằng cách biến đổi cấu trúc dòng thơ, xây dựng những hình thức nhịp điệu, tiết điệu mới:

chia cho em một đời Thơ
một lênh đênh
          một dại khờ
                              một tôi
chỉ còn cỏ mọc bên trời
một bông hoa nhỏ lặng rơi mưa dầm...

Lục bát Nguyễn Trọng Tạo không nghiêng hẳn về âm hưởng ca dao như Nguyễn Duy, không sấn sổ táo tợn như Đồng Đức Bốn sau này, và cũng khác với cách “gảy khúc trăng vàng” của làng quê Bắc bộ như Phạm Công Trứ trong Lời thề cỏ may. Cái riêng của lục bát Nguyễn Trọng Tạo là sự phiêu diêu của cảm xúc, ma lực của âm nhạc và sự kỹ lưỡng nghiêng về phía sang trọng của chữ nghĩa. Đây là thế mạnh nhưng cũng là một cái bẫy với chính nhà thơ cho dù anh muốn quẫy đạp và vượt thoát khỏi tiền nhân. Đây đó vẫn có những câu mang hơi hướm của Nguyễn Bính. Nhưng thời Nguyễn Bính, sự nới giãn cấu trúc dòng thơ để tạo nên sự lạ hóa trong cấu trúc văn bản hãy còn quá hiếm. Còn hiện thời, hình thức xuống thang, ngắt câu thành những đoạn ngắn nhằm lạ hóa khuôn hình sáu -tám trở thành ngón chơi của nhiều người. Song có thể nói, Nguyễn Trọng Tạo thuộc số những người tiên khởi. Trong số những khúc lục bát hay của Nguyễn Trọng Tạo, bên cạnh Chia, tôi đặc biệt ấn tượng với Mẹ tôi. Thi phẩm này không mang mang nỗi niềm như Trông ra bờ ruộng của Hữu Thỉnh mà sử dụng giọng kể nhà quê rất thích hợp:

mẹ tôi dòng dõi nhà quê
trầu cau từ thuở chưa về làm dâu
áo sồi nâu, mấn bùn nâu
trắng trong giải yếm bắc cầu nên duyên
.

Nói thế để thấy rằng, mặc dù kỹ lưỡng và có ý thức trau chuốt ngôn từ, nhưng khi cần, Nguyễn Trọng Tạo biết cách đổi giọng để vần điệu hài hòa với cảm xúc. Từ những chuyện đời ngỡ như thật riêng tư, bài thơ mở ra một khung trời tâm tưởng, và bóng mẹ trở nên da diết lạ lùng: mẹ tôi tóc bạc răng đen- nhớ thương xanh thẳm một miền nhà quê. Sức hút của bài thơ này nằm ở sự giản dị của ngôn từ và giọng kể chứ không nằm ở kỹ xảo thuần túy. Vậy là sau rất nhiều lưu lạc, vẫn có một miền quê ẩn sâu trong hồn thơ Nguyễn Trọng Tạo:

ngác ngác giữa phố
một thằng nhà quê
nhớ thương mộ tổ
biết bao giờ về
             (Lưu lạc)

Tôi nghĩ, cái gốc quê ấy không đơn giản là nơi sinh trưởng, lớn lên nhìn từ góc nhìn địa lý mà rộng hơn, là hồn vía văn hóa của quê mình, dân tộc mình ám vào hồn thơ Nguyễn Trọng Tạo và qua nhạc, qua vần điệu, tiết tấu, chữ nghĩa mà rung lên thành thơ:

Cỏ may khâu áo làng quê
Cớ chi gió thổi bay về trời cao
Ta lên sân thượng chạm vào
Cỏ may. Ta cúi xuống chào... Cỏ may!
                                     (Cỏ may trên sân thượng)

Trước đây, người ta thường nhắc đến hình ảnh Cao Bá Quát đê thủ bái mai hoa. Nay kẻ hậu sinh Nguyễn Trọng Tạo cũng biết lãnh tinh thần hướng về cái đẹp ấy trước cỏ may. Đó là một hành động nghĩa khí và nghệ sĩ. Nhưng nếu hoa mai trong thơ Cao Bá Quát có ý nghĩa như một siêu mẫu nói về sự thanh cao quen thuộc trong hệ từ vựng thơ ca cổ điển thì cỏ may trong thơ Nguyễn Trọng Tạo là hình bóng của quê hương, là nỗi niềm của một con tim nhạy cảm: loanh quanh sân thượng mà thương cánh đồng. Một nhành cỏ may bất chợt đã đánh thức cái nhìn hoài nhớ tuổi xưa của Nguyễn Trọng Tạo. Bài thơ gợi lên một tình yêu da diết và sâu sắc. Trong con người ấy, quê hương bao giờ cũng bình dị và thiêng liêng. Thêm một lần nữa, tôi muốn khẳng định, cái chất nhà quê cứ chảy hoài trong kẻ lưu lạc kia đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất làm nên dải phổ cảm xúc thơ  Nguyễn Trọng Tạo. Nhưng cũng cần lưu ý thêm rằng, đó là chất nhà quê vùng Hoan Diễn- Nghệ An và đã được bồi đắp thêm những tố chất văn hóa của các vùng quê khác mà bước chân lưu lạc của Nguyễn Trọng Tạo đã từng đặt chân đến. Thế mới ngu ngơ, tưng tửng nhưng cũng hết sức ngọt ngào mềm mại. Đó là cái mềm mại hiện lên sau cái vẻ gẫy gập, trúc trắc, xa xót của những câu ví dặm quê anh.

Thế ra, với Nguyễn Trọng Tạo, chuyện mê mải với vần, nhịp, câu, chữ đâu phải chuyện hình thức đơn thuần. Nói cách khác, Nguyễn Trọng Tạo đã biết nâng cái nhà quê trong anh lên tầm hiện đại. Lao động chữ, đúng như Lêônov từng nói, nhằm bảo đảm cho mỗi tác phẩm “phải là một phát hiện về nội dung và là một phát minh về hình thức”. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Trọng Tạo lại hăng hái cổ vũ cho thơ trẻ. Đơn giản, đó là điểm gặp của một người mang ý hướng cách tân và những nỗ lực cách tân của thế hệ mới. Biết là trong những cách tân kia của tuổi hai mươi, vẫn còn có nhiều bất cập, non nớt thậm chí vụng về. Nhưng không nên nhìn những cây bút măng tơ ấy bằng cái nhìn của mẹ chồng: Xưa kia ai cấm duyên bà... Thực ra, đổi mới là nhu cầu của bất cứ cây bút nào. Một khi nhu cầu ấy không còn nữa thì cũng là lúc sự nghiệp thơ của người  đó chấm dứt. Tôi nghĩ, trong quá trình làm mới thơ mình, Nguyễn Trọng Tạo đã có những thành công đáng trân trọng. Sự đổi mới ấy không dựa vào những thủ pháp đồng hiện, cắt dán, những hình ảnh mang màu sắc lập thể, những từ ngữ lạ tai, chói mắt mà là quá trình trở về với nhịp chẵn, với lục bát đồng dao, với vần lưng vần nối để nói lên tâm tính người hiện đại. Câu chữ của anh nhô lên từ truyền thống nhưng không bị áp chế bởi cái nhìn xưa cũ mà có những phá cách về nghệ thuật. Sự phá cách ấy không nhằm tạo ra thời thượng trong nghệ thuật mà bắt nguồn từ nhu cầu đổi mới cảm xúc và giọng điệu của chính bản thân anh. Vì thế, nó diễn ra tự nhiên chứ không rơi và gượng ép như nhiều người vẫn nghĩ.

Bên cạnh những vần thơ về nhân thế, về nỗi cô đơn xa xót, cảm hứng về tình yêu cũng là một nhịp mạnh trong thơ Nguyễn Trọng Tạo. Thậm chí, lắm khi nhà thơ ngỡ rằng đó là một phần cốt yếu của thơ anh: vẽ tôi con Lợn cầm tinh- con Gà cầm tháng con Tình cầm tay. Vâng, cái con tình ấy xuất phát từ nòi tình Nguyễn Trọng Tạo. Tài hoa đa đoan là thế, Nguyễn Trọng Tạo mê đắm ví những khóe mắt đa tình, những làn tóc rối, những ngón nhỏ thon mềm cũng là điều dễ hiểu. Không chỉ có những khúc hát nhẹ nhàng tha thiết kiểu “người ở đừng về”, Nguyễn Trọng Tạo còn nói đến sự bốc lửa, đê mê. Cảm giác Biển Hồ hay là Thơ bên miệng núi lửa là một bài thơ như thế. Một kiểu nuy trang nhã: Anh nín thở đến kiệt cùng máu ứa- Cột lửa phun nham thạch phì nhiêu- Rồi chết lịm trong vỗ về mơn trớn- Mười ngón dài thon của gió chiều... Lại có khi, tình yêu gắn với được- mất, hoài tiếc, nhớ nhung:

rồi cũng khóc như em khóc cho điều đã mất
trâm Cỏ Thi. Ừ nhỉ, cỏ thôi mà
nhưng nước mắt... cũng như em, tôi đã
thêm một lần tái diễn trước cỏ hoa.

                                    (Tái diễn)

Cái chất libido trong thơ Nguyễn Trọng Tạo có nhiều cung bậc khác nhau, khi nồng nàn bốc lửa, cuồng nhiệt đắm say, khi ngơ ngẩn một niềm hối tiếc, khi xót xa máu ứa... Nhưng tất cả đều trang nhã, nó không quá mạnh như lứa thi sĩ trẻ sau anh: Không còn biết một chấn động nào hơn- Anh xoáy vào em- Cơn lốc (Vi Thùy Linh). Cũng phải thôi, đó là cách nói của hai thế hệ. Thế hệ sau bảy lăm dám nói thật những cuồng nhiệt của mình cho dù đó là một sự thật gây sốc với nhiều người nhất là những người đạo đức giả. Còn Nguyễn Trọng Tạo, anh biết tìm đến cách nói “nửa phô mình ra nửa giấu lại mỉm cười” trong nguồn mạch thi họa phương đông. Đây cũng là một lựa chọn để tạo thành một bản tính trong thơ.

Mặc dù thơ tình là phần thể hiện khá rõ phẩm chất tài hoa nơi anh nhưng một khi quá ỷ vào tài hoa mà tình chưa thật đậm, Nguyễn Trọng Tạo có thể hút hồn người đọc bằng âm điệu nhưng sự lắng lại về chiều sâu ý tứ chưa thật nhiều. Thậm chí, có khi Nguyễn Trọng Tạo chưa thoát khỏi sự mòn cũ cho dù anh luôn có ý thức tìm đến những cách thức biểu hiện mới. Điều đó có thể thấy rõ trong những bài như Cỏ và mưa, Người đẹp nhìn tôi... Mới hay, giữa ý thức đổi mới và cái mới thực sự được kết tinh trong tác phẩm bao giờ cũng là một khoảng cách. Khoảng cách ấy ngỡ mỏng thôi nhưng kỳ thực, đó là cả một thế giới. Chỉ khi nào Nguyễn Trọng Tạo biết mở rộng cái nhìn nhạy cảm của mình, khi những trăn trở của anh gắn với trăn trở của nhiều người, khi niềm cô đơn và tê tái chắt lại thành triết lý qua những bài thơ mang chất giọng vừa sâu sắc vừa phiêu diêu thì thơ anh mới đủ sức sống lâu dài trong tâm trí người đọc. Nhưng với những gì đã có, Nguyễn Trọng Tạo thực sự là người có những đóng góp đáng quý trong quá trình đổi mới thơ ca. Trong những thi phẩm xuất sắc nhất của mình, anh đã ngộ ra được lẽ sống của thơ là sự đổi mới không ngừng.

Mấy năm trở lại đây, Nguyễn Trọng Tạo viết ít thơ hơn. Có lẽ anh đã san sẻ quá nhiều cho nhạc, cho vẽ, cho báo, cho say?...Nhưng cũng rất có thể, anh đang lặng lẽ ấp ủ cho một sự bùng nổ nào đó sẽ đến trong thơ. Nếu có một chút nghi ngờ, xin hãy đọc lại Nguyễn Trọng Tạo: Tin thì tin không tin thì thôi!

   N.Đ.Đ
(182/04-04)

--------------------------
1. Nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn cũng cho rằng bài thơ Tin thì tin không tin thì thôi trong tập Đồng dao cho người lớn “có lẽ là bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo” (Xem Lời giới thiệu Nguyễn Trọng Tạo- Thơ, Nxb Kim Đồng, H.2003)
2. Nguyễn Trọng Tạo trả lời phỏng vấn, Phan Hoàng thực hiện, báo Sài Gòn giải phóng, thứ bảy, ngày 22. 9. 2001.
3. Theo bản dịch của Vương Tử Ba trong Tuyển tập thơ hay của Pháp, Nhà xuất bản Văn học, H.1995.
4 . Dẫn theo M. ar nauđov- Tâm lý học sáng tạo văn học, Hoài Lam và Hoài Hoài Ly dịch, Nxb Văn học, H.1978, trang 536.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.