Nguyễn Thiên Đạo nhà soạn nhạc “trong Lão ngoài Khổng”

16:53 02/06/2008
LTS: Hơn 60 năm về trước (1940), Hà nội cũng như hai bậc phụ mẫu không thể ngờ rằng đứa hài nhi do mình sinh ra sẽ trở thành một trong những nhạc sỹ tài danh của thế kỷ 20 được thế giới ghi nhận khi tuổi đời mới hơn 40! Nhưng đó là sự thật, sự thật ấy có tên là Nguyễn Thiên Đạo- người được từ điển danh nhân Le Petit Larousse (1982) và Le Petit Robert (1995) tôn vinh là "nhạc sỹ tài năng, tác giả của dòng nhạc hợp lưu Đông -Tây vô cùng độc đáo".

Sông Hương đã có cuộc gặp gỡ với nhạc sỹ Nguyễn Thiên Đạo bằng một đêm sênh tiền trên sông Hương thơ mộng nhân chuyến về thăm quê nhà của nhạc sỹ. Bài tản mạn mà Sông Hương giới thiệu dưới đây được rút trong tập: Những người vô trọng lượng của tác giả Văn Cầm Hải.

(.....) Không như nhà phân tâm học S.Freud- thuộc về những người làm mất giấc ngủ ngon của thiên hạ, nhà soạn nhạc Nguyễn Thiên Đạo, tuy cũng là người mê man điệu chơi vô thức nhưng ông là người làm cho giấc ngủ của mọi người thêm nồng say để rồi sau khi hồi tỉnh bỗng nhận ra mình như vừa chìm đắm qua một cơn mê thiên hà do người nhạc sỹ hoà âm và hiện hữu vào đời sống. Minh mang với thế giới âm thanh Nguyễn Thiên Đạo, tôi bỗng cảm hoài đến Richard Strauss, Mussogsky, Rimsky -Korsarov với những bản giao hưởng thơ, nhất là hình ảnh Zarathustra tái hiện một cách hoành tráng đến trầm hùng của Richard Strauss trong bản giao hưởng Also Sprach Zarathustra - vốn là đứa con tinh thần của triết gia Nietzsche. Ngôn ngữ triết học vốn đã huyền thẳm lại càng huyền thẳm hơn khi được thể hiện bằng ngôn ngữ âm nhạc. Nguyễn Thiên Đạo cũng hằng mong và ông đã tạo nên cho mình một một thế giới nội tâm mới, bền bỉ mà cũng mong manh, rộng lớn mà cũng khúc chiết những ý tưởng triết học lung linh trong từng âm sắc dị biệt của dòng khí nhạc thuộc trường phái tiên phong mà ông- người học trò xuất sắc của Oliver Messsian- là một trong những con chim đầu đàn.
Sau lần gặp gỡ và chuyện trò với ông vào những ngày cuối tháng 5 ở Huế, trong căn phòng 306 của khách sạn Hoa Hồng- căn phòng khi xưa Trịnh Công Sơn từng lưu trú cùng ly rượu hennessy cô độc khi về thăm Huế, tôi chợt nhận ra trong nhà soạn nhạc Nguyễn Thiên Đạo còn có một nhà triết học Nguyễn Thiên Đạo. Không biết bao nhiêu lần, ông khẳng định, cuộc đời cũng như sự nghiệp sáng tác của ông là cuộc viễn du với cấu trúc "trong Lão ngoài Khổng" hay nói đúng hơn đó là nền tảng triết học nuôi dưỡng ông trong từng giây phút. Nửa chừng trong bữa cơm thân mật ở nhà nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo, bỗng dưng ông đứng dậy kéo tôi ra bàn nước để mấy lần đấm nhẹ xuống bàn rất tâm đắc tiếp nối câu chuyện triết học "trước quả đấm là vĩnh cửu, sau quả đấm là vĩnh cửu" đã và đang dở dang cùng tôi từ hôm mới về Huế. Hình như ở ông, chừng nào con người lĩnh hội được sự toàn diện của hư không, trong khoảnh khắc hiện hữu ấy, con người sẽ có một thế giới đặc biệt, thế giới của sự dung hoà giữa cái tôi không tôi và cái tôi xã hội. "Dung hoà cả hai bên, vấn đề là phải tìm ra cái trung dung. Một cái bình nước đầy sẽ đổ, với quá sẽ nghiêng, vừa vặn thì đứng vững. Cái trung dung ấy gần với phép biện chứng làm nên một cấu trúc trong Lão ngoài Khổng". Trung dung theo cốt cách của Nguyễn Thiên Đạo nghĩa là "chi thiên địa hoá dục, đạt thiên hạ thái bình" ( Dẫn dắt làm cho trời đất biến hoá phát triển sinh sôi nãy nở, đạt tới cảnh thiên hạ thái bình) và quá trình biến hoá mang tính siêu việt ấy chỉ có thể hiển thị trong âm nhạc vì theo ông "chức năng của âm nhạc là nói lên cái không nói được, diễn tả cái không diễn tả được, ngôn ngữ âm nhạc sát gần thần tiên toát tục". Âm nhạc của Nguyễn Thiên Đạo là sự hợp nhất giữa cái cụ thể và trừu tượng, giữa hư vô và hiện hữu, giữa ý thức hiện sinh nồng cháy và ý thức tự diệt, giữa cái phi logic của không -thời gian và lịch sử, giữa cái cô đơn và toàn thể, giữa cái ngạc nhiên và sự trầm tĩnh. Sự hợp nhất ấy sẽ chết trong "ngôn ngữ vật chất", nó chỉ sống trong môi trường âm thanh "sát gần" với cái tuyệt đối không thể diễn tả bằng lời của tâm linh. "Sát gần" là cụm động tính từ Nguyễn Thiên Đạo hay dùng trong khi trao đổi với tôi, với ông sáng tạo nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói riêng phải vươn lên "sát gần với đỉnh cao" "sát gần với cái tuyệt đối" "sát gần với khoa học" vì khi đạt đến đỉnh cao đó cũng là lúc vạn vật tàn lụi. Với Nguyễn Thiên Đạo, đời sống tự thân của âm nhạc cũng giống như thiên đạo: có thể lớn, có thể bé, có thể quy tụ không đầy một nắm đấm, có thể giãn rộng vô biên, đôi khi tràn ngập đôi khi trống rỗng không thời gian, không giới hạn cuối cùng, không ngừng biến diễn mà sinh ra vạn vật vũ trụ dậy lên trong lòng người những cảm thức đa chiều. Xa xưa Khổng Tử từng suy ngẫm, nhạc là do âm mà sinh ra, âm khởi phát từ lòng người, lòng người cảm ngoại vật mà động cho nên mới hình thành cái thanh, những cái thanh tương ứng với nhau để biến thành cái phương tức là các cung bậc cao thấp cung, thương, giốc, chủy, vũ vì vậy nhạc với lòng người cảm hoá lẫn nhau. Và khi lòng người đạt đến sự hư tĩnh, điềm đạm, tịch mịch, vô vi là bình chuẩn của vũ trụ, mức chí cao của đạo đức, là sự trở về gốc của vạn vật theo như lời của Lão Tử trong chương Thiên Đạo. Đó chính là ngoại diên và nội hàm của cấu trúc "trong Lão ngoài Khổng" trong cuộc đời cũng như trong sự nghiệp sáng tạo của Nguyễn Thiên Đạo. "Từ lúc còn bé, từ lúc tôi nhận định mình là một con người thì tôi biết sự đơn côi và đau xót tâm bào luôn luôn đeo đuổi tôi vì vậy tôi phải tự tìm cho mình một mảnh vườn riêng, một sa mạc riêng để rong chơi vượt ra ngoài sự ràng buộc của thời gian và không gian. Và khi đạt tới một đạo siêu việt thì không còn là đạo nữa, đời sống lúc ấy được nhận diện bằng trực giác và sự đốn ngộ mà thôi, bởi vậy cái thế giới riêng được tạo dựng bằng âm nhạc ấy làm thế nào để người nghe được chìm đắm trong say mê không còn lĩnh hội đâu là kỹ thuật, đâu là thủ pháp thì mới thành công, còn khi nghe mà người ta còn lĩnh hội được được kỹ thuật và thủ pháp thì bản nhạc ấy chỉ mới ở cấp một!" Chìm đắm trong biển âm thanh, người nghe cũng như người sáng tác đều trong trạng thái chìm đắm, không phân biệt ranh giới giữa yếu tố vô thức và yếu tố kỹ thuật là một điều không giản đơn, đặc biệt là đối với khí nhạc thì dụng cụ biểu hiện đóng một vai trò rất quan trọng, nói như Nguyễn Thiên Đạo "âm nhạc là một ngôn ngữ rất sát với khoa học vì khoa học chế tạo ra những dụng cụ tinh xảo, thậm chí cả vi tính để tạo nên những âm thanh mới giúp cho tai nghe và tư duy thêm được một chiều cảm nhận, thậm chí còn thay đổi. Ngày trước người ta chỉ nghe giai điệu còn bây giờ ngoài giai điệu còn có nhiều chiều khác như hoà thanh, cường độ, màu sắc quyện vào thành một dòng nhạc vừa có hào khí vừa lơ lửng không có trọng lượng!" Để có nhiều chiều cảm nhận, âm nhạc đã vượt ra ngoài cung trưởng thứ, các bản nhạc phải tự tìm cho mình một hình thức thể hiện, làm nên sự khác biệt của âm nhạc hiện đại so với âm nhạc truyền thống và Nguyễn Thiện Đạo đã thành công với tư cách là một nhà soạn nhạc của trường phái mới, trường phái tiên phong. Khi cung trưởng thứ bị phá vỡ, bị khuất lấp cũng là lúc âm nhạc của Nguyễn Thiên Đạo bay lên hoà âm vào thinh không "lúc nào tôi cũng mong muốn âm nhạc bay lên không gian!" được sống thanh thản giữa bầu trời tự do của chân minh hoan (chứ không chỉ dừng lại ở cấp độ chân thiện mỹ) để chia lòng với người, chia vui với trời. Chính cấu trúc "trong Lão ngoài Khổng" đã giúp Nguyễn Thiên Đạo thanh thản sống giữa lòng văn minh lý tính Âu châu với một tinh thần trong sáng, "cố vươn đến cái anh nhi của Lão Tử" để khẳng định một lối suy tưởng mới: tôi muốn tức là tôi tồn tại chứ không phải tôi tư duy là tôi tồn tại. Không ít người đã hiểu khác về Nguyễn Thiên Đạo như một tiến sỹ ở viện âm nhạc Tchaikovsky từng đánh giá rằng khi ông đắm chìm trong dòng nhạc là ông đang thoát tục, còn gặp ông ngoài đời ta thấy sự hồn nhiên con trẻ. Vẫn là cách nói nhị nguyên, chưa thực sự đi vào bản thể Nguyễn Thiên Đạo, một bản thể thống nhất và dung hoà mọi mối mâu thuẫn để tạo nên một dòng chảy nhất nguyên trong âm nhạc.
Sự ham muốn tột bậc của ông là gì? Phải thể hiện một thứ ngôn ngữ mới nhất, tìm thêm một tư duy cho âm nhạc mang dấu ấn riêng biệt và hiện đại, hiện đại  tức là tuyệt đối Việt Nam, tiếp thu các thủ pháp tiên tiến nhất của thế giới để làm một cái gì Việt Nam nhất. Việt nhất là nhân loại! Ông khẳng định với tôi khi nói về quan niệm hiện đại và ý thức sáng tạo của mình. Kể từ ngày giã biệt tuổi thơ ở làng Cát Động-Hà Đông, sang Paris lúc 14 tuổi, theo học nhạc viện quốc gia Pháp năm 1963, bốn năm sau trở thành học trò xuất sắc của nhà soạn nhạc Oliver Messian đến những tháng năm trưởng thành giữa bầu trời âm nhạc Âu châu, ông đã làm những gì như ông tâm niệm. Với những tác phẩm Thành đồng tổ quốc, Mỵ Châu Trọng Thuỷ, Tuyến Lửa, Nam Ai, Bất Khuất,  Bà Mẹ Việt Nam, Giải phóng, Máu và hoa, Khóc Tố Như...của những năm 70 cho đến Concerto Thiên Thai, Hoà tấu 95, Giao hoà Sinfonia, Hồn non nước và ngay cả tác phẩm Vũ trụ thanh độc đáo mang tên thủ đô các nước và tên các loài tinh tú vang lên trong phần hợp xướng do nhà nước Pháp mời viết gần đây nhất không những toát lên hào khí mà còn thấm đẫm hồn nhạc truyền thống, ngập tràn hoài niệm và bi hùng của một dân tộc tự lực tự cường không chịu sống quỳ trước mọi thế lực, có điều âm nhạc truyền thống trở nên tượng trưng huyền ảo hơn qua bàn tay sáng tạo được mệnh danh là "thầy phù thuỷ về âm sắc". "Nhạc dân tộc Việt nam đã ảnh hưởng trực tiếp đến âm nhạc của tôi, một câu hò mái nhì, một giai điệu quan họ hay Tứ đại cảnh rất đậm chất dân gian mà cũng rất hiện đại. Vấn đề là phải chọn lọc, lấy cái cốt lõi, cái tinh hoa của nó để biến thể thành một ngôn ngữ hiện đại, thêm vào một chiều tư duy mà ở âm nhạc Tây âu không có!" Hoá ra cái cấu trúc "trong Lão ngoài Khổng" kia không chỉ đơn thuần là của Lão của Khổng mà qua Nguyễn Thiên Đạo, nó được biến hoá thành một tinh thần sống của một linh hồn Việt, đó là cả một quá trình giao lưu văn hoá như ông nói "Khi mà trí tuệ không đạt tới đỉnh cao để bình thản tiếp thu các nền văn minh khác thì khó mà sáng tạo được". Sự sáng tạo của ông đã được thế giới công nhận, Nguyễn Thiên Đạo trở thành người "xưa nay hiếm" khi mới hơn 40 tuổi ông đã có mặt trong từ điển danh nhân thế giới bởi một lý do: Có lẽ âm nhạc của tôi luôn luôn hướng về Việt Nam, luôn luôn nằm trong lòng dân tộc và muốn nói lên hào khí dân tộc Việt Nam cùng cái trữ tình, cái khía cạnh thần tiên, bi hùng của người Việt Nam!"
Vào cái buổi sáng hanh vàng mùa hè xứ Huế, Nguyễn Thiên Đạo chia tay với tôi bằng một lời nhắn nhủ vừa cho bản thân ông vừa cho những cuộc đời khác, đặc biệt là những cuộc đời còn trẻ "Tôi kể việc tôi vào từ điển danh nhân thế giới không phải là có ý tự mãn với mình mà là một sự nhắc nhở tôi luôn luôn phải cố gắng học tập, học hỏi hơn nữa để xứng đáng với điều mình đã có, để xứng đáng với lời Bác từng căn dặn các vua Hùng có công dựng nước, Bác cháu ta phải có công giữ nước!" Bất giác những ngày qua, nhớ dáng gầy guộc thảnh thơi cùng những bí mật phát hiện và lưu giữ, những tâm tâm tình triết học và nghĩa cử ông dành cho mọi người, cho cả bé Thiên Cầm mới mấy tháng tuổi ngay cả sau khi ông đã về Paris, tôi hình dung ông là hình hài một hạt rượu gạo nồng say của nền văn minh lúa nước hoà quyện vào những dòng chảy thiên hà, trong hạt rượu gạo ấy có sắc vàng của xứ Chàm miền Trung Việt Nam, sắc vàng hoài niệm và bi hùng vốn đã bí mật vang lên trong huyết quản tổ tiên của anh từ một ngày xa xưa mấy trăm năm về trước!
Cử thiên địa chi đạo, nhi mỹ vu hoà (Đạo cùng trời cuối đất nó hay, nó đẹp ở cái chữ hoà), phải chăng đó là sinh mệnh ứng với cái tên Nguyễn Thiên Đạo, người nhạc sỹ dung hoà hai nền văn minh Đông-Tây bằng một cấu trúc anh nhi "trong Lão ngoài Khổng" mà cuộc đời hằng làm, hằng thành công và vẫn còn viễn du vươn lên những đỉnh ánh sáng những nơi chưa sáng lập....
11/9/2001

VĂN CẦM HẢI
(nguồn: TCSH số 152 - 10 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.

  • VIỆT ĐỨCCâu trả lời đầu tiên vẫn thuộc về môi trường sinh hoạt âm nhạc. Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh mỗi đêm có đến 50 tụ điểm ca nhạc hoạt động với cơn sốt ca sỹ leo thang đến chóng mặt.

  • Dương Bích HàCũng như các loại hình nghệ thuật khác, nền âm nhạc cổ truyền luôn tồn tại hai dòng: âm nhạc bác học và âm nhạc dân gian.Ở Huế, trên một thế kỷ là kinh đô của triều đại phong kiến Việt Nam, nên đặc biệt, tính chất này được bộc lộ rất rõ và triệt để, là nơi phân chia rạch ròi nhất các giai tầng trong xã hội, trong văn hóa nghệ thuật.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNgày xưa, xã hội Việt Nam thực hiện nguyên tắc “phụ truyền tử kế” (cha truyền con nối), cho nên ông nội tôi - cụ Nguyễn Đắc Tiếu (sinh 1879), người làng Dã Lê chánh, xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, lúc mới lên mười tuổi, đã được cố tôi (lính trong đội Nhã nhạc Nam triều) đem vào Đại nội học Nhạc cung đình (Musique de Cour).

  • PHAN THUẬN THẢONhã nhạc là loại hình âm nhạc chính thống được sử dụng trong các cuộc tế, lễ của các triều đình quân chủ ở Việt Nam và một số nước khu vực Đông Á. Trong các cuộc triều hội, cúng tế, âm nhạc luôn theo suốt quy trình của buổi lễ, từ lúc mở đầu cho đến hồi kết thúc. Nó tham gia vào từng tiết lễ, là một thành tố không thể thiếu của cuộc lễ, đồng thời, là phương tiện giúp con người giao tiếp với thế giới thần linh. Loại hình âm nhạc này được các triều đại quân chủ hết sức coi trọng, được phát triển thành một thứ quốc nhạc và là một trong những biểu tượng cho sức mạnh của vương quyền và sự vững bền của triều đại.

  • THÂN VĂN1. Phương thức liên kết về bài bản.Đặc điểm chung nhất của hệ thống bài bản hòa tấu nhạc cung đình thường là ngắn gọn, gắn liền và phù hợp với các ca chương trong mỗi nghi thức tế lễ. Những nghi thức này được tiến hành theo một trật tự trang trọng và nghiêm ngặt, nên mỗi bài bản ca chương và âm nhạc buộc phải trình tấu đúng với thời gian cho phép của từng nghi thức. Những bài bản này đương nhiên hoàn toàn độc lập về nội dung, nhưng do nằm trong một trật tự trình tấu nối tiếp liên tục, nên ngẫu nhiên đã hình thành các thể loại liên hoàn khúc khác nhau. Trong đó, độ dài, ngắn của mỗi liên hoàn khúc, tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của cuộc lễ, tuỳ thuộc vào số lượt nghi thức và số ca chương mà cuộc lễ quy định.

  • YAMAGUTI OSAMUTháng Giêng năm 1994, trong lúc đang còn ngất ngây hương vị Tết, thì đột nhiên điện thoại và fax từ Paris đến tới tấp. Đó là vì UNESCO đã nhận lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam để mở một Hội nghị Quốc tế thảo luận về vấn đề nên làm gì và cái gì có thể làm được để bảo tồn và phát huy tài sản văn hoá vô hình của Việt Nam, vì vậy họ muốn mời tôi tham gia hội nghị và đưa ra đề nghị cụ thể. Ông Tokumaru Yosihiko (giáo sư của Đại học Nữ Ochanomizu, lúc đó còn là Trưởng khoa của Khoa Văn hoá- Giáo dục) cũng nhận được lời mời như vậy, nên tôi đã liên lạc với ông và cả hai quyết định nhận lời mời này.

  • VIỆT HÙNGCuộc toạ đàm với chủ đề Sự cần thiết phải thành lập nhạc viện ở Huế vừa diễn ra vào ngày 10/3/2004. Đây là một trong những hoạt động nằm trong khuôn khổ của Trại sáng tác khí nhạc dân tộc và phê bình lý luận âm nhạc, do Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam Thừa Thiên Huế phối hợp với Trường Đại học Nghệ thuật Huế tổ chức từ 9/3 đến 17/3/2004.

  • THÂN VĂNSau hơn 2 tháng phát động và 9 ngày chính thức dự trại (từ ngày 09 đến 17/3/2004), với 14 tác phẩm khí nhạc dân tộc và 5 tác phẩm lý luận phê bình âm nhạc của 17 nhạc sĩ có mặt tham dự trại. Lễ bế mạc chiều ngày 17/3/2004 Trại sáng tác khí nhạc dân tộc & lý luận phê bình âm nhạc tại Huế đã gây được ấn tượng tốt đẹp và những tín hiệu đáng mừng trong lòng nhân dân Cố Đô. Điều đáng nói là các nhạc sĩ của Hà Nội, Huế và TP.Hồ Chí Minh đã gặp nhau từ một ý tưởng sáng tạo chủ đạo là nhằm tôn vinh và phát huy các giá trị của di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu ở Huế, góp phần định hướng cho mô hình và mục tiêu đào tạo của Nhạc viện Huế trong tương lai.

  • TRẦN VĂN KHÊNhạc Cung đình là một bộ môn nhạc truyền thống Việt Nam dùng trong Cung đình. Nhưng người sáng tạo và biểu diễn Nhạc Cung đình hầu hết là những nhạc sĩ, nghệ sĩ từ trong dân gian, có tay nghề cao, được sung vào Cung để phụng sự cho Triều đình. Nhạc Cung đình Huế là một bộ môn âm nhạc truyền thống Việt Nam rất đặc biệt và có một giá trị lịch sử, nghệ thuật rất cao.

  • THÁI CÔNG NGUYÊNMột nhà văn nước ngoài khi đến thăm Huế đã nói: “Huế là một bảo tàng kỳ lạ chứa đựng trong lòng mình những kho tàng vô giá, những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần Việt Nam”. Đúng vậy, bên cạnh kho tàng di sản văn hóa kiến trúc đồ sộ có giá trị tầm vóc quốc tế, Huế còn là một tụ điểm di sản văn hóa tinh thần phong phú, một vùng văn hóa Phú Xuân đặc sắc “Huế đẹp và thơ” nổi tiếng.

  • PHÙNG PHUNgày 07 tháng 11 năm 2003, ông Koichiro Matsuura, Tổng Giám đốc UNESCO đã chính thức công bố trong một buổi lễ long trọng nhân kỳ họp toàn thể lần thứ 32 của Ðại hội đồng UNESCO tại Paris: UNESCO đã ghi tên 28 Kiệt tác vào Danh mục Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại.

  • LTS: Đại hội khoá II (nhiệm kỳ 2003 - 2008) của Chi hội Nhạc sỹ Việt Nam Thừa Thiên Huế vừa diễn ra vào trung tuần tháng 9. Nhạc sỹ Hồng Đăng, Phó Tổng thư ký Hội Nhạc sỹ Việt Nam, thay mặt cho BCH Hội Nhạc sỹ Việt Nam vào tham gia chỉ đạo Đại hội. Tại Đại hội, nhiều tham luận, ý kiến phát biểu của các nhạc sỹ đã thể hiện được sự trăn trở về thực trạng và hướng phát triển của nghệ thuật âm nhạc đương đại Huế. Sông Hương xin trích đăng một số ý kiến đã trình bày tại đại hội.

  • LÂM TÔ LỘCĐại tá - nhạc sĩ Đức Tùng, sinh năm 1926 tại Huế đẹp và thơ, đã mãi mãi xa quê: Ông mất ngày 25/01/2003. Ông viết ca khúc từ trước Cách mạng tháng Tám như Kỷ niệm ngày hè, Bên trời xa, Dòng Dịch thủy, Dưới ánh trăng mơ. Ông đã từng biểu diễn ca nhạc tại nhà hát Accueil, là cây Accordéon cầm chịch của ban nhạc gia đình ở phố Hàng Bè.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ Năm nay (2003), nhạc sĩ Trần Hữu Pháp (NSTHP) “mới” tròn 70 tuổi, nhưng dễ đã mấy chục năm, sau khi nhạc sĩ Trần Hoàn rời Cố đô ra Hà Nội nhận các trọng trách, NSTHP nghiễm nhiên ngồi “chiếu trên”, là “già làng” của giới âm nhạc Thừa Thiên Huế. Kể cũng phải; từ bốn mươi năm trước, khi hàng triệu thiếu nhi miền Bắc đội mũ rơm dắt lá nguỵ trang đến trường, miệng líu lo ca bài hát ông vừa sáng tác “Tiếp đạn nào / Tiếp đạn chuyền tay trên chiến hào / Cho chú dân quân bắn nhào phản lực...” thì không ít các nhạc sĩ nổi danh bây giờ có lẽ còn... bú mẹ! Vậy mà trước mắt tôi (và chắc là với không ít người nữa) - nói ông anh đừng giận nhé - vị nhạc sĩ lão làng này lại rất...trẻ con!

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Người ta thường nhắc tới Thái Quý như nhắc tới một con người giàu tình cảm, dễ khóc, dễ cười, dễ nóng giận và cũng rất vị tha. Nói đến khuyết điểm của mình trong cuộc họp, anh khóc đã đành, nhưng khi chỉ trích khuyết điểm của đồng đội, anh cũng khóc...

  • NGUYỄN THANH TÚNăm ngoái, tôi tình cờ gặp nhạc sĩ Thái Quý khi ông đang bận rộn chỉ đạo "đoàn thành phố Huế" trước giờ ra sân khấu tham gia hội diễn ca múa nhạc công - nông - binh - trí thức do tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức tại nhà hát Trung tâm Văn hoá.

  • VĨNH PHÚCNếu kinh đô Thăng Long xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng dân gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh, thì kinh đô Phú Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phát tán thành một lối gọi là Ca Huế (gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân-Huế.

  • VĂN THU BÍCHTừ bao đời nay, tình yêu Huế vẫn mãi chìm sâu trong lòng những người con xứ Huế, dù đang sống trên đất Huế hoặc đã biền biệt xa xứ và Huế mộng mơ cũng len nhẹ vào hồn du khách khi đến thăm vùng đất thần kinh này.

  • TRẦN NGỌC LINHBạn còn thương bạn biết gửi sầu về nơi mô?Trước khi tôi vào Huế, chị tôi dặn: “Vào muốn gặp bà Minh Mẫn cứ đến đường Nhật Lệ mà hỏi”. Theo cách nhớ đường của một người viễn khách từ xa đến thì đến phố đó cứ thấy đầu ngõ nào có một giàn hoa tử đằng với những dây hoa buông thõng chấm xuống nền đất vỉa hè thì đó chính là lối rẽ vào ngõ nhà danh ca Minh Mẫn.