Nguyên Ngọc với Tây Nguyên

10:00 10/02/2010
LÊ VĂN DƯƠNG1. Quý II năm 2005, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh phát hành, nói đúng ra là tái bản lần thứ nhất cuốn Tản mạn nhớ và quên của Nguyên Ngọc. Cuốn sách dày 560 trang, tập hợp 15 bài viết của tác giả ở những thời điểm khác nhau nhưng đa phần là vào những năm 90 của thế kỷ XX và một vài năm mở đầu thế kỷ XXI.

Nhà văn Nguyên Ngọc - Ảnh: tuoitre.com.vn

Tám (8) trong số mười lăm (15) bài trên viết về vùng đất, con người, văn hoá Tây Nguyên. Đó là các bài: Tượng gỗ rừng già; Lễ thổi tai và rượu cần, tản mạn nhớ và quên; Người nghệ sỹ vô danh đã sinh ra cây K’nia; Người hát rong giữa rừng; Rừng trong văn hoá Tây Nguyên; Nhà rông, hồn của làng; Núp, người già làng của cả Tây Nguyên; Nơi học nghề làm người. Quý III năm 2008, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh phát hành tập bút ký Bằng đôi chân trần cũng của Nguyên Ngọc. Sách gồm hai phần: Phần 1- Những chiều kích của rừng; Phần 2- Lan man đường dài, với 30 bài viết. Trừ bài Người hát rong giữa rừng đã có mặt ở cuốn trước, cuốn này có 14, nghĩa là suýt soát một nửa trong tổng số 30 bài, vẫn tiếp tục với đề tài Tây Nguyên, theo đuổi vấn đề Tây Nguyên: Tây Nguyên mê hoặc; “Loại hình sống” Condo; ABốc ở Mường Hon; Lửa nguyên thuỷ; Những chiều kích của rừng; Người đi qua lỗ đất Adreh; Các bạn tôi ở trên ấy; Người hát rong giữa rừng; Người về Kông Ch’Ro; Sáu linh hồn của người Xteng; Phát triển Tây Nguyên thử nhìn từ một góc độ khác; Một lớp trí thức mới của Tây Nguyên, hoàn toàn là hiện thực; Già làng hôm nay; Du lịch bền vững ở Tây Nguyên; Du lịch bền vững.

Ngoài hơn hai chục bài in ở hai cuốn sách nói trên, Nguyên Ngọc còn có rất nhiều bài khác cũng về đề tài Tây Nguyên in trong bộ Nguyên Ngọc - Tác phẩm, gồm 3 tập, do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành năm 2007 nhân kỷ niệm lần thứ 75 ngày sinh của ông. Đấy là những con số có ý nghĩa, nói được nhiều điều về người viết và địa chỉ mà người viết hướng đến. Phải là một người gắn với Tây Nguyên quá đỗi thân thiết, suy nghĩ về Tây Nguyên đau đáu và dữ dội, có một tiềm lực biết và hiểu dồi dào về Tây Nguyên mới có thể biểu lộ ra trang giấy nhiều bút lực đến vậy. Còn Tây Nguyên chắc phải có sức “mê hoặc” kỳ lạ đối với Nguyên Ngọc như tên một bài viết của ông?

Cũng như nhiều nhà văn khác, trải qua hai cuộc chiến, rồi thời bình, mang danh “nhà văn - chiến sỹ” đúng với cả nghĩa đen và nghĩa bóng, Nguyên Ngọc từng có mặt ở nhiều vùng, miền khác nhau. Cũng vì lẽ đó, nhiều địa danh từ Đồng Văn, Mèo Vạc - vùng biên giới phía Bắc đẹp như thơ, như mơ đến “một thế giới đảo vừa thực vừa hư, đa dạng đến kỳ lạ”, “hoang dã mà hiện đại”- vùng đảo Kiên Hải, Kiên Giang hấp dẫn, kỳ thú của cực Nam đất nước đã hiện hữu trong tác phẩm của Nguyên Ngọc. Nhưng ấn tượng sâu đậm nhất vẫn là Tây Nguyên chứ không phải một vùng miền nào khác. Nguyên Ngọc yêu và say Tây Nguyên đến nồng nàn, mê đắm. Ông nhìn ra “tiềm lực văn hoá”  dường như bất tận của khu vực địa lý - văn hoá - dân tộc Tây Nguyên. “Chuyện Tây Nguyên thì có thể kể suốt đời, không bao giờ hết, chẳng bao giờ chán” (ABốc ở Mường Hon): Chuyện rừng, chuyện nhà rông, tượng gỗ, chuyện chế biến và uống rượu cần, tục bỏ mả, chuyện tính cách tự do phóng khoáng của con người. Chuyện nào cũng lý thú. Đã đọc, đã nghe thì không thể và cũng không dễ dứt ra được. Người ta gọi Nguyên Ngọc là nhà văn. Đương nhiên. Nhưng cũng có thể gọi ông là nhà Tây Nguyên học bởi sự am tường, sâu sắc của tác giả về con người, núi non, tập tục nói rộng ra là văn hoá Tây Nguyên. Đất và người Tây Nguyên thấm đẫm trong văn Nguyên Ngọc bằng cả trí tuệ và tình cảm. Mỗi bài viết là một nỗi niềm, một tâm trạng.

Mượn tâm sự của linh mục Người Pháp, Jacques Dournes, người mà tôi chắc Nguyên Ngọc vô cùng yêu mến và nể trọng, rằng “nếu phải hiểu để mà có thể yêu, thì lại phải yêu để mà có thể hiểu”, Nguyên Ngọc muốn gửi tới mọi người một thông điệp: “Phải hiểu và yêu, yêu và hiểu. Hiểu để mà yêu, yêu để mà hiểu, đều đến tận cùng” (ABốc ở Mường Hon). Với suy nghĩ ấy, Nguyên Ngọc đã tạo và tạo được cho mình điểm nhìn Tây Nguyên “Không phải từ bên ngoài mà từ bên trong”. Nghĩa là ông không nhìn Tây Nguyên như một người xa lạ, từ nơi khác nhìn vào mà với tư cách là thành viên, là chủ thể của nền văn hoá ấy. “Đắm mình trong văn hoá của họ” tới mức “cứ ngỡ mình đã trở thành người Tây Nguyên rồi” (Tượng gỗ rừng già )- Nguyên Ngọc tâm sự. Cố nhiên, điểm nhìn nào cũng có ưu điểm và hạn chế. Nhưng với Nguyên Ngọc, điểm nhìn ấy đã mang đến cho những trang văn của ông sức hấp dẫn riêng, đặc biệt là độ tin cậy trong những kiến giải, đề xuất. Hơn hai chục bài ký của Nguyên Ngọc về Tây Nguyên ở hai cuốn Tản mạn nhớ và quên; Bằng đôi chân trần và cũng ngót ngần ấy bài in trong tập 1 và 2, bộ sách 3 tập, Nguyên Ngọc - Tác phẩm là những bài cực kỳ hấp dẫn. Hấp dẫn không chỉ ở hơi văn mê hoặc, lôi cuốn, ở giọng văn vừa như tranh luận, chất vấn vừa như thuyết phục, ở những câu chuyện như thực, như mơ mà còn hấp dẫn bởi lượng thông tin thú vị, mới mẻ, kỳ lạ. Kỳ lạ đến “sững sờ” như cách nói của Nguyên Ngọc khi nhà văn giúp ta “chạm” đến được những nét văn hoá Tây Nguyên “độc nhất vô nhị”, thẳm sâu, bí ẩn.

Nhiều người qua sách vở hoặc tận mắt nhìn ngó, chiêm ngưỡng nhà rông Tây Nguyên nhưng không khỏi ngỡ ngàng khi nghe Nguyên Ngọc cặn kẽ lý giải: “Nhà rông không phải là một cái miếu, nhưng cũng như cái miếu, nó là sản phẩm đặc trưng của một biểu tượng văn hoá sâu sắc nhất trong đời sống của người Tây Nguyên: Làng” (Nhà rông, hồn của làng). Chưa hết. Cũng là nhà rông, là kiến trúc đấy nhưng “Kiến trúc Êđê khác kiến trúc Bana hay Xơđăng. Nếu vùng Bana hay Xơđăng nổi tiếng về những ngôi nhà rông cao vút thanh thoát tựa những cánh chim, thì nhà dài là niềm tự hào kiến trúc của người Êđê. Nhà dài đằm và trang trọng, là sự kỳ vĩ đậm đà của chiều ngang chứ không phải cái kiêu hãnh và điệu đà của chiều cao. Nó đặc biệt hài hoà với thiên nhiên Êđê vốn bát ngát những bình nguyên mênh mông đến hút tầm mắt” (Kể sử thi, sống sử thi). Lý giải tục “tế lễ giết trâu” ở Tây Nguyên và qua đó nhằm nhắc nhủ, cảnh tỉnh một số người vì vô số lý do khác nhau đã hiểu sai hoặc cố tình hiểu sai dẫn tới những áp đặt văn hoá vô lối, vô lý lẽ ra không nên có, Nguyên Ngọc viết: “Ở Tây Nguyên người ta nuôi trâu không phải để cày, trâu không phải là sức kéo, có mấy anh cán bộ vớ vẩn phê bình bà con dân tộc tế lễ giết trâu là “lãng phí sức kéo”. Hiểu như vậy, theo ông, là “quá ư kiêu căng mà dốt nát không biết được rằng ở đây trâu là con vật làm nhiệm vụ thiêng liêng thay con người hiến linh để tế thần linh” (ABốc ở Mường Hon). Nguyên Ngọc hiểu rất sâu “hồn vía” Tây Nguyên, mặc dù Tây Nguyên không phải quê sinh của tác giả.

2. Nguyên Ngọc đau đáu với Tây Nguyên trên những vấn đề vừa muôn đời vừa nóng bỏng. “Muôn đời” ở bản sắc văn hoá. “Nóng bỏng” ở sự phát triển trong hiện tại và tương lai. Cố nhiên cái “muôn đời” với cái “nóng bỏng”  đều có trong nhau, soi chiếu qua nhau. Cái này tìm thấy cái kia, gợi ý cho cái kia trong hướng đi lâu dài, bền vững. Vấn đề “nóng bỏng” phải được xây dựng trên cái “muôn đời”, không phá vỡ, phá hỏng cái “muôn đời”. Trong Phần II, phần “Lan man đường dài”, cuốn Bằng đôi chân trần, Nguyên Ngọc dành hẳn 5 bài cùng một số bài trong bộ Nguyên Ngọc - Tác phẩm, tập 2, để lý giải, đề xuất chiến lược phát triển Tây Nguyên trong bối cảnh đối mặt với toàn cầu hoá. Đó là các vấn đề cơ chế quản lý xã hội; xây dựng lớp trí thức mới ở Tây Nguyên và cho Tây Nguyên; vấn đề du lịch bền vững... Về vấn đề cơ chế quản lý xã hội ở Tây Nguyên, Nguyên Ngọc cho rằng phải thực hiện theo cơ chế già làng và hội đồng già làng. Đây là “cơ chế rất đặc biệt và hết sức hiệu quả” bởi xã hội Tây Nguyên là xã hội trọng hiền chứ không phải là trọng quyền (Tôn trọng thực tế, bài  học lớn nhất ở Tây Nguyên). Không hiểu hoặc hiểu sai nét độc đáo này thì chỉ có thể dẫn tới những khó khăn, lúng túng thậm chí thất bại cay đắng, khôn lường trong chiến lược phát triển kinh tế, văn hoá và bình ổn chính trị, xã hội ở vùng đất này (Núp, người già làng của cả  Tây Nguyên; Tôn trọng thực tế, bài học lớn nhất ở Tây Nguyên). Gắn với vấn đề cơ chế quản lý xã hội là vấn đề xây dựng lớp trí thức mới, bởi họ, chứ không phải ai khác chính là tầng lớp “già làng mới” của Tây Nguyên. Nguyên Ngọc lý giải: “Trong một làng, người già làng không phải bao giờ cũng nhất thiết là người nhiều tuổi nhất. Mà là người hiền minh nhất”.

Không phải ngẫu nhiên, Nguyên Ngọc đặt cho một bài viết của ông tiêu đề mang đầy tính đối thoại, tranh luận: Già làng hôm nay? Trả lời câu hỏi du lịch sao cho bền vững, Nguyên Ngọc cho rằng đó là du lịch văn hoá, mà “văn hoá tuyệt diệu” của Tây Nguyên là văn hoá rừng, văn hoá làng. Du lịch văn hoá là vấn đề độc đáo, đặc biệt, được nhà văn nhấn đi, nhấn lại trong nhiều bài ký, tạp văn; là “phương châm, đầu tiên và căn bản” của việc phát triển du lịch bền vững ở Tây Nguyên. Kinh tế gắn với văn hoá. Làm văn hoá cũng là làm kinh tế. Có khi cách làm này lại là cách làm hiệu quả, ít nhất là đúng với Tây Nguyên. Rõ ràng những vấn đề được Nguyên Ngọc đặt ra không hề là những vấn đề nhỏ, “tản mạn”, hoặc “lan man” như cách nói khiêm nhường của ông mà thực chất là những vấn đề lớn, thiết thực. Nguyên Ngọc phát biểu, tranh luận có thể nhiều khi gay gắt nhưng thấu lý, đạt tình, và... nhiệt tình. Nhiệt tình đến quyết liệt. Chừng nào Tây Nguyên, khu vực vốn rất quan trọng, còn là điểm nóng trong chiến lược phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước thì chừng đó những suy nghĩ, kiến nghị thẳng thắn của Nguyên Ngọc, thiết tưởng vẫn còn tươi rói ý nghĩa thời sự.

3. Trở lại với đề tài Tây Nguyên của Nguyên Ngọc không thể không nhắc tới hai tác phẩm: Đất nước đứng lên Rừng xà nu. Sinh năm 1932, hai tư tuổi đời, Nguyên Ngọc “trình làng” rất ấn tượng với cuốn tiểu thuyết Đất nước đứng lên (cuối 1955). Đây là tiểu thuyết đầu tiên, và cũng là tác phẩm đầu tay của Nguyên Ngọc. Chính tác phẩm này đã đưa ông tới giải cao nhất, giải nhất, Giải thưởng Văn nghệ 1954 - 1955 của Hội Văn nghệ Việt Nam ở khu vực văn xuôi. Mười năm sau, năm 1965, truyện ngắn Rừng xà nu ra mắt bạn đọc. Truyện được trao Giải thưởng Văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu, một giải thưởng danh giá hồi đó dành cho các tác phẩm văn học nghệ thuật và văn nghệ sỹ bộ phận Văn nghệ Giải phóng miền Nam Việt . Hai tác phẩm viết ở và viết về hai thời kỳ khác nhau. Nhưng cả hai đều viết về Tây Nguyên anh hùng trên cơ sở lấy những con người thật, sự việc có thật làm chất liệu sáng tạo hình tượng. Nói thế để thấy trong mạch văn của Nguyên Ngọc, Tây Nguyên luôn luôn chiếm vị trí nổi bật, là điểm nhấn quan trọng ở bất kỳ thể loại nào, dù đó là tiểu thuyết, truyện ngắn, ký hoặc tạp văn. Hơn nửa thế kỷ qua, Tây Nguyên đối với Nguyên Ngọc là “mạch nước ngầm” để khai thác, sáng tạo, hình thành một phong cách nhà văn không giống bất kỳ ai, không lẫn với ai, phong cách Nguyên Ngọc trong cả ưu và nhược, mà bắt đầu từ Đất nước đứng lên. Là một người “gắn bó lâu dài với Tây Nguyên và gần suốt cuộc đời đã tự coi mình như một đứa con của vùng đất anh hùng và giàu tình nghĩa này” (Già làng hôm nay?), Nguyên Ngọc hướng đến Tây Nguyên , viết về Tây Nguyên phải chăng như một sự tri ân, trả nghĩa và cũng là trách nhiệm. Trách nhiệm của một công dân, trách nhiệm của một nhà văn. Cũng vì vậy, tôi nghĩ, Nguyên Ngọc đâu chỉ viết về Tây Nguyên, mà còn viết vì Tây Nguyên.

L.V.D

(252/02-2010)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)