LÊ THÀNH NGHỊ
Đầu năm 2002, nghĩa là sau Đổi mới khoảng mươi lăm năm, trên Tạp chí Sông Hương, có một nhà thơ nổi tiếng thế hệ các nhà thơ chống Mỹ đặt câu hỏi: Liệu Nguyễn Khoa Điềm có giai đoạn bùng nổ thứ ba của thơ mình hay không? Chắc chắn sẽ rất khó. Nhưng người đọc vẫn hy vọng*.
Khó, có lẽ bởi vì hai giai đoạn trước đó: giai đoạn chống Mỹ và giai đoạn sau ngày hòa bình, thơ Nguyễn Khoa Điềm thực sự xuất sắc, bút pháp già dặn hồn hậu như đã đến độ ổn định; khó cũng có thể là vì, lẽ đời những ai đã qua một thời mải miết trên đường hoạn lộ (Viết cuối năm) như ông quan to Nguyễn Khoa Điềm, bây giờ quay về đời thường, đạp xe ngõ này qua ngõ khác, liệu có chút gì đó vướng víu trong hòa nhập thường thấy như ở người khác; bây giờ quay lại với thơ trong thời buổi thơ xuống giá, liệu có chút gì đó buồn nản thỏa hiệp như bao người khác?
Nhưng người đọc yêu mến ông vẫn hy vọng, và, quả là trong số những ai đã từng dính líu với thơ, ngoại trừ khi không còn khả năng, vì sức khỏe, vì cạn kiệt niềm tin vào con người, niềm hy vọng vào cuộc đời… không có một ví dụ nào thi nhân bỏ cuộc giữa chừng. Đọc thơ Nguyễn Khoa Điềm giai đoạn ba: Cõi lặng (2007) và sau Cõi lặng cho ta câu trả lời tự tin ấy.
Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ tiêu biểu của thơ chống Mỹ. Những năm tháng gian nan ấy, những người con ưu tú nhất của dân tộc, như nắm thóc tung lên giữa mùa Cách mạng (Nguyễn Đình Thi) hăng hái lên đường đi cứu nước, trải qua gian khổ cùng cực, chết chóc vô thường, nhưng tuyệt nhiên không có ai buồn bã và mai một hy vọng. Với những tập thơ và trường ca viết trên chiến khu (Đất ngoại ô, 1973 và Mặt đường khát vọng, 1974) Nguyễn Khoa Điềm đã góp công nâng bước chân của biết bao người, những con người đã đổ máu và hát ca trên đường ra trận (Trên đường). Còn nhớ ở ông một giọng thơ chính luận cao sang và thuyết phục, đằm sâu mà ngân vang, chan chứa cảm hứng lãng mạn với rung động lớn lao của thời đại, mà vẫn ngân nga những ước ao thầm kín trong trái tim những chàng trai, cô gái khắp các ngả đường hành quân. Những chàng trai, cô gái ấy, nay đã không còn trẻ nữa, nhưng họ đã rắn rỏi lên về tinh thần với những vần thơ ngợi ca đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.
Sau chiến tranh, dù công việc bận rộn, Nguyễn Khoa Điềm vẫn tiếp tục làm thơ. Tập Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986) gồm những bài thơ viết trong khoảng mười năm sau chiến tranh. Vẫn còn những xốn xang trong tâm hồn trước cái đẹp: mùa thu và cô gái mặc áo vàng: Đã rung lên như lửa cháy/ Một mùa thu đã chết tận xa xôi/ Cho tôi sống bồi hồi/ Trên chân trời rung cảm khác, vì thế vẫn muốn đặt mình trên từng con chữ (Đi bên mùa thu), và lại bắt đầu như lửa (Trên khối đá của từ ngữ)… Trong Ngôi nhà có ngọn lửa ấm thấp thoáng những hồi tưởng về mười năm đốt lửa Trường Sơn/ Cơn sốt, cơn đói/ Người nằm xuống kẻ còn lưa,… nhớ bạn bè phút giây sống chết (Ngôi nhà có ngọn lửa ấm), những ký ức bom đạn ngày trước, những niềm vui trong lao động dựng xây, những khó khăn của đời sống sau chiến tranh, đã làm ông cũng như biết bao người ngồi trầm ngâm thâu đêm (Ngôi nhà có ngọn lửa ấm). Thơ Nguyễn Khoa Điềm mở ra những gì trước kia thơ ông chưa kịp nói, vì vậy, trang thơ phong phú hơn, phức tạp hơn, đánh dấu một giai đoạn mới, với một bút pháp khác trước: xôn xao, thì thầm như máu mặn (Bạn ơi, bạn có biết) trong tâm hồn, trong điềm tĩnh lắng trầm nghĩ suy (Trên khối đá của từ ngữ), như để chuẩn bị cho Khoảng lặng, hát một lời buồn, có ưu tư của đắng cay từng trải nhưng cũng đầy lạc quan vốn vậy: Sự tàn nhẫn nhắc ta điều lành/ nỗi buồn đánh thức hy vọng (Hy vọng).
*
Cõi lặng ra đời năm 2007, từ đó đến nay người đọc vẫn tiếp tục được gặp thơ ông trên báo viết, báo mạng. Đây là những bài thơ đánh dấu giai đoạn ba trong sự nghiệp sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm, những bài thơ nói lên tâm thế ứng xử của ông với thời gian, nhân gian khi đã đến tuổi gió núi mây ngàn (Cõi lặng).
Với thời gian, Cõi lặng có thể là dòng sông tĩnh lặng ngược nước về dĩ vãng (Thành phố, sớm xuân) trầm ngâm với những kỷ niệm cũ, bài thơ cũ, khúc hát cũ. Khung cảnh đã khác, thời gian đã khác: Năm tháng trôi đi, năm tháng về…/ Tóc không xanh tóc ngày xưa nữa, sắc thái của giọng hát cũng đã khác: Em hát cái ngày đau xót đó/ Bây giờ dịu ngọt cứ như không/ …thời gian cũng hình như không trở lại: Những lời ru ấy rơi trong núi (Trở lại A Lưới), khoảng thời gian đủ dài (Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ viết năm 1971, Trở lại A Lưới viết năm 2006) để có thể làm phôi pha những kỷ niệm đẹp đẽ ngày xưa; đủ dài để có thể đối diện với một nỗi buồn thấm thía khi đã qua rất nhiều đắp đổi của tháng ngày: Em thanh xuân/ Anh quá đỗi/ Ngại ngùng/ Sương với gió/ Đượm buồn từng tấc cỏ… Đà Lạt trẻ/ Mà anh thì luống tuổi/ Hoa quỳ vàng/ Ái ngại/ Nở chờ anh (Hoa quỳ vàng), khi đã tự lượng được sức mình: tuổi sáu ba/ Các cô gái đều lẫn vào mây trắng,… sợ điều phiền toái/ Thấy đám đôi co đã vội đánh bài chuồn (Tuổi sáu ba). Nhưng không phải đã thôi mơ ước, cho dù khoảng cách lớn dần trong hồn/ Như vầng trăng lúc về sáng:
Mắt mũi ngày càng kém
Chữ nghĩa rậm rịch điều cao xa
Bao giờ, nơi nào, anh đọc được mình
Qua nỗi đau nhân loại?
(Những quyển sách)
Hoặc, Cõi lặng thường dễ làm nhớ lại những ngày tháng cũ gian nan mà ấm tình đồng đội: Thích bạn kể những ngày trên núi Rệ/ Chúng ta ăn trọn một suối rau rừng (Tuổi sáu ba); là lúc: Nhìn nhau thương con mắt/ Còn lung lay ngọn lửa rừng (Về quê đón tết). Điều này cho thấy ở Nguyễn Khoa Điềm ân nghĩa với ngày xưa luôn luôn như lửa ấm không bao giờ tắt trong đáy sâu tâm hồn ông.
Cõi lặng cũng có thể đã đến lúc trôi:
Đặt mình trên con nước, đầu hướng về biển, anh trôi đi
Cùng hình bóng những đền đài, những cạm bẫy của thời gian,
nước mắt người đã chết
Anh trôi đi cùng phù du phiêu sinh vật,
những tiếng chuông không ngày về…
Anh trôi đi
Không bắt đầu, không kết thúc, không bờ bến…
(Sông Hương)
Trôi đi và mang theo biết bao tâm sự, những tâm sự tưởng như trải dài bất định không bắt đầu, không kết thúc, bình yên và lặng lẽ, những tâm sự thấm thía lẽ đời tiếng chuông không ngày về, thấm thía nỗi đau những cạm bẫy của thời gian, nước mắt người đã chết. Một cõi lặng của sự trôi nhưng không phải buông, không phải lãng quên, vây kín bằng những ký ức như những nốt trầm lan tỏa trên mặt sóng thời gian, không gian. Trôi nhưng vẫn nguyện làm hạt nước: Anh trôi đi…/ Mang tự do của nước đến với mọi cuộc đời…/ Để sống (Sông Hương).
Cõi lặng có thể là khoảnh khắc, một khoảnh khắc của niềm vui bình dị, nhẹ nhõm: Yên ả, thì thầm con suối nhỏ/ Giờ buôn xa tiếng trẻ gọi trâu về/ Giờ xao xác cánh cò mặt nước/ Giờ nỗi buồn theo gió cũng tan đi (Ngày về). Những thì thầm, xao xác kia, như tự nói rằng cõi lặng chưa phải là nơi đã hết những xôn xao và hy vọng: Rồi một sáng bầu trời xanh trở lại/ Có con chuồn chuồn chấm đỏ ngọn thơ vui (Không có quyền mệt mỏi).
Cõi lặng có khi là những tháng ngày riêng tư của hạnh phúc có thật, là ngọn lửa ấm trong mỗi mái nhà: bơ vơ trước giá sách cũ/ Chỉ mừng đã không than vãn/ Nói lời hiền mỗi sớm mai (Gửi vợ tôi); hoặc: Cháu vừa ra đời/ Ta được thăng làm ông ngoại…/ người lớn chạy lon xon/ Nào sữa nào tã lót/ Thế giới quá rộn ràng/ Khi trẻ nhỏ có mặt (Thơ tặng cháu ngoại), hoặc phút thư thái bình yên, không hề vướng bận điều gì: Thích gió nắng/ thích màn đêm tĩnh lặng/ Nghe thong dong hơi thở xuống đan điền (Tuổi sáu ba).
Cõi lặng có thể là một nỗi đam mê, hăm hở khám phá: Một mình một ba lô và xe đạp…/ gió gọi anh đi; có thể là một suy nghĩ, triết lý: Chỉ có thơ/ Làm lẽ phải thầm lặng (Nhớ một nhà thơ đã mất); có thể là một cõi an nhiên: Tảng đá sạch rơi vào vùng núi cũ/ Một Trường Sơn sương khói đã vào thu/ Một tình yêu gửi gắm tự ngày xưa (Sau ngày hội); có thể là một không gian hoài niệm mưa: Không ai nhớ là mưa đã nói/ Những lời buồn trên núi suốt mùa đông/ Những cay đắng dòng sông đã gọi/ Khi sông trôi qua bãi vắng cuối dòng (Mưa có nói gì không nhỉ?).
Cõi lặng có thể là một sự đợi chờ, lấy cái tĩnh bên ngoài để chế ngự cái động tận sâu bên trong, vào một thời khắc yên tĩnh: Đêm sâu…/ Ta ngồi như cội trúc/ Gội mưa thu bốn bề…/ Chỉ mong em trở lại/ Kịp hái chùm tóc tiên/ Cắm lên bình lam ngọc/ Mừng một ngày lãng quên (Mưa thu).
Cõi lặng cũng có thể là một thoáng nhớ nhà, rất thường gặp với những ai tuổi lớn: Thương cây mai, cây nhãn, khóm hồng/ Bức tường cũ vệt vôi vàng trí nhớ/ Bóng mẹ cha thăm thẳm bên lòng (Viết cuối năm).
Cõi lặng cũng có thể là một phút lặng yên trước đèn, ngẫm nghĩ về thân phận thi nhân, cũng có thể là phận mình: Chợt buồn nhẩm lại Dương Châu mộng/ Khuôn mặt thi nhân sáng trước đèn (Đọc thơ tứ tuyệt của Đỗ Mục); một nỗi cô đơn, một tình huống ngại ngùng, có gì đó vấp váp trong tâm trạng: Đi suốt một ngày không gặp ai/ Những người có thể gặp đã ở sau lưng anh/ Mà anh thì không muốn đứng lại (Người cô độc).
Nhưng trên hết cả, Cõi lặng là thì hiện tại, ngổn ngang thế sự. Đây là khoảng thời gian Anh là một với cánh đồng, Cánh hẩu với quán cóc, ăn chịu với cỏ, là những ngày gió gọi anh đi/ Là chuyến về không hạn định/ chia tay với nắm đấm micro/ giã từ cà vạt. (Bây giờ là lúc). Một không gian tự do và thanh thản, đã có thể an nhiên tự tại, một khoảng thời gian mênh mông bù đắp cho những gì bị mất trước đó, trái ngược với những gì bận bịu trước đó. Anh giã từ hết thảy/ Những đá đã làm đau, những gió đã làm buồn (Vào hạ). Bây giờ là lúc có thể nghỉ ngơi du ngoạn: Đi thăm người thân: (còn nhớ một buổi chiều cách đây vài năm tình cờ tôi và nhà văn Nguyễn Trí Huân gặp ông trên sân bay Phú Bài, mũ lá, túi xắc ngang hông, y hệt một chủ tịch xã những năm sáu mươi của thế kỷ trước, chỉ thiếu một chiếc đài bán dẫn Orionton, một mình hăm hở lên ghế máy bay hạng thường dân ra Hà Nội thăm cháu!), hoặc trở lại Trường Sơn, nơi từng đốt lửa mấy năm trời/ bẻ củ sắn chia đôi điều giản dị ngày xưa, dạo bước trên Hoàng thành, nơi cha ông gọi tên mình ù ù qua họng súng thần công những năm tuổi trẻ, thăm lại những mặt đường khát vọng một thuở bên dòng sông quê nhà: Sông Hương ơi, sông Hương/ Người còn nguồn với bể/ Còn ta hai lăm tuổi/ Trôi cạn trên mặt đường (Mặt đường khát vọng), hay giản dị, đón bạn cũ đến chơi nhà: Bạn cũ đến chơi/ Chép miệng sống cũng tạm được/ Phải cái hơi móm/ Cười trống trơ như Đỗ Phủ (Về quê đón tết), hoặc: về Ưu Điềm ngắm lại đám lục bình mênh mang màu mực tím, có tiếng bìm bịp nước kêu thương nhớ năm nào…
Trở về nhà
Nói cười trong gian bếp cũ
Đi vào đi ra
Ngồi bệt xuống thềm
Ngó mây bay trên vườn nhà khác
(Về quê đón tết)
Đi vào đi ra…/ Ngó mây bay trên vườn nhà khác, thế nghĩa là không phải như ngày xưa về ở ẩn, mà như vẫn còn chan chứa khát vọng sống, lòng vẫn còn chưa yên tĩnh, còn điều gì đó đang thấp thỏm phía trước, bàn chân còn muốn đi, mắt vẫn muốn nhìn, tai vẫn muốn nghe, tâm hồn… như cánh rừng xa khuất (Trên đường) vẫn còn run rẩy với những mùa thu im lìm lá đổ, những mùa xuân trắng lặng thầm trong hoa táo tháng ba. Như vậy là còn chưa đươc nghỉ ngơi thực thụ: Đi vào đi ra,…gió gọi anh đi…/ gió gọi anh về. Với Nguyễn Khoa Điềm, thời gian thường sóng đôi theo hai chiều, chiều nào cũng xa rộng, mỗi chiều như một biến thể của dấu ấn tâm trạng, và tâm hồn người viết như ở khoảng giữa hai chiều ánh sáng ấy: Thăm thẳm ngày xưa bình an/ Vời vợi ngày mai chói nắng (Hy vọng). Cho dù có lúc nửa đêm tiếng mưa xa. Chợt gọi anh về/ Vùng yên lặng những chập chờn quên lãng (Sau ngày hội), nhưng một giọng thơ từng hào sảng trong những ngày xuống đường như ông, dễ gì có thể đạt đến vùng yên lặng? Và, nếu ngày xưa là bình an, ngày mai chói nắng, thì hiện tại vì sao con người vẫn ngồi như cội trúc/ Gội mưa thu bốn bề? Có phải cõi nhân gian nơi chúng ta đang sống còn ngổn ngang biết bao điều cần quan tâm?
Đúng vậy, nhân gian (cũng là trần gian) trong Cõi lặng là cõi người với những cung bậc của đời người, qua tâm trạng một người cao tuổi, có nỗi buồn, những nỗi buồn luôn thức dậy trong những đêm thanh vắng, trở thành nỗi trăn trở. Nguyễn Khoa Điềm đã làm giật mình người đọc: Bây giờ là lúc… Anh tham dự trận tấn công cuối cùng/ Vào cái chết (Bây giờ là lúc).
Trận tấn công cuối cùng vào cái chết (một sự nhập cuộc mới) mang nhiều nghĩa, tôi hiểu theo nghĩa rộng: tấn công vào tất cả những gì đang hủy hoại cái đẹp, hủy hoại sự sống: tuổi tác cao dần lên, sức lực thấp dần xuống, khát vọng hao hụt dần, cái nghèo đói thời buổi mồ hôi trở nên quá rẻ, cái ranh ma trở nên quá giàu (Cánh đồng buổi chiều), sự ngang nhiên của cái ác, sự im lặng cam chịu của người tốt, sự phai nhạt niềm tin, sự tàn nhẫn hung bạo trong con người.
Hung bạo trên mạng, trên sàn diễn, trong lớp học
Hung bạo giữa bàn nhậu, trong cửa sau công sở,
hung bạo đường phố
Hung bạo văn chương, tố giác, nặc danh
(Nghe tin hai nhà khoa học bị tai nạn xe máy)
Cái giá phải trả cho công cuộc làm ăn kinh tế, mặt sau của sự phát triển, khi đồng tiền và tiện nghi vật chất được đề cao quá đáng, văn hóa chưa được chú ý đúng mức, đã kéo theo sự xuống cấp của đạo đức tinh thần diễn ra khắp mọi ngõ ngách của đời sống. Một số người trở nên hung bạo, tàn nhẫn, mất dần nhân tính. Họ lấy cảm hứng làm đau người khác làm thói quen sống của mình, lấy sự thô bạo trơ lỳ để đối nhân xử thế. Nguyễn Khoa Điềm trở về trong một thời điểm Đất nước những tháng năm thật buồn, giữa một thế giới không nhiều may mắn (Hy vọng). Đấy là những năm tháng nhà thơ có đủ chín chắn để ngẫm nghĩ về cõi nhân gian bé tí của mỗi người đang sống; có đủ kinh nghiệm để phân định cái đúng, sai, thường biến, thường hằng; có đủ tư cách để lên tiếng với những gì chưa hoàn hảo của cuộc đời, của mỗi con người: Trước cánh rừng âm u anh đã rung lên như sấm sét thì bây giờ anh được hát một lời buồn (Không có quyền mệt mỏi).
Bây giờ bạn đã quay lưng
Chén trà một chân đóng cặn.
Mặt em như vầng trăng lặn
In trong bài thơ cuối mùa
Ta còn chút vốn rau dưa
Đặt cọc lên tờ giấy trắng
(Bây giờ)
Được hát một lời buồn, bởi vì cuộc đời không có gì buồn hơn đang hiện diện sự giả trá, sự tráo trở, sự lật lọng phản thùng của những kẻ đứng trong bóng tối. Nguyễn Khoa Điềm nói hộ cho nhiều người, như để an ủi họ trong cái khoảnh khắc sống rất có hạn của mỗi con người, nhưng vô hạn sự xót xa do con người bày ra:
Ở đó giữa lằn ranh sống - chết
Lòng nhân ái từng giờ sụt lở
(Giữa lằn ranh sống-chết)
Nhân tình thế thái quả là có lúc, có nơi ngay trong thì hiện tại đang đến hồi tệ hại, thật đáng buồn. Nhưng không chỉ buồn, trên tất cả nỗi buồn, ở một cấp độ khác, là thấp thỏm lo âu, nỗi lo âu trước biết bao điều hệ trọng đối với mỗi con người, những ai còn có biết suy tư, những ai vẫn mê mải đeo đuổi một ngày mai tốt lành (Đất nước những tháng năm thật buồn), những ai sống không phải chỉ cho mình, những ai đã từng đi qua máu lửa, hiểu sâu sắc cái giá của ngày đang sống.
Bây giờ lá cờ trên cột cờ Đại Nội
Có còn bay trong đêm?
Sớm mai còn giữ được màu đỏ…?
(Đất nước những năm tháng thật buồn)
Cảm giác bất an, day dứt ấy là có thật. Cuộc sống còn lắm tai ương, còn đầy những tệ nạn: tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, ức hiếp dân lành, và nhất là lương thiện mỗi lúc một trở nên xa xỉ, nhân ái từng giờ sụt lở (Giữa lằn ranh sống - chết)… đã gây ra biết bao bức bối, phẫn uất đang từng ngày từng giờ gặm nhấm niềm tin, biến đổi nhận thức, kích hoạt hành vi, như một nguy cơ có thể dẫn đến kết cục khôn lường. Những câu thơ như đã chạm đến chỗ sâu nhất trong tâm tư mỗi con người:
Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta
Trong không gian đầy sợ hãi
(Đất nước những tháng năm thật buồn)
Tất cả cho thấy sức nặng của sự đặt cọc lên tờ giấy trắng với sự mẫn cảm có giá trị thức tỉnh của một nhà thơ vẫn đi bên cạnh thời cuộc, trách nhiệm với cuộc đời, quan tâm đến số phận, vận mệnh của con người, cả cái riêng và cái chung, cho dù ông đang trong mùa trở lại vườn cũ**, có quyền được xếp sang một bên những lo âu lẽ ra không đáng có kia của cuộc đời. Đây là tâm tư đầy khắc khoải xót xa của một người luống tuổi, trước những câu hỏi không dễ gì có ngay lời đáp:
Bao giờ giọt nước mắt chảy xuống má
Không phải gạt vội vì xấu hổ
Ngước mắt tin yêu mọi người?
Bao giờ buổi sáng, buổi chiều nhìn ra đường
Thấy mọi người nhẹ nhàng, vui tươi?
(Đất nước những tháng năm thật buồn)
Để có được những buổi sáng, buổi chiều thanh thản ấy, mỗi một con người cần phải hiểu đây là cuộc chiến không tiền khoáng hậu/ Để mình còn là mình/ Mình là sự sống (Sự sống), là sự không khoan nhượng với cái ác, cái xấu, cho dù có lúc: Chúng ta, kẻ không may mắn/ Rồi cũng nhập vào dòng chảy của điều tốt đẹp/ Dòng nước sẽ rửa sạch sự đớn hèn/ Dẫu có khi đã nhường lời cho bọn khoác lác (Nhớ Nguyễn D). Với riêng ông, tự dặn mình không có quyền mệt mỏi đủ nói lên trong ông vẫn chưa vơi cạn niềm tin và hy vọng vào cuộc đấu tranh chống lại tất cả những gì đang hủy hoại cuộc sống:
Tôi ạ, anh phải nguyên vẹn một con người
Anh không có quyền mệt mỏi
Bởi vì nắng có mệt mỏi chút nào đâu
Những ngọn cỏ phủ xanh mộ người thân yêu như xanh không biết mỏi
Bởi vì gừng lại cay, muối lại mặn, bầy trẻ lại tựu trường
và ở nơi xa xôi kia, những con sóng lại tìm được bãi bờ
(Không có quyền mệt mỏi)
Và sự lựa chọn của ông là: Chỉ có cái chết mới bắt ta nằm xuống/ Cho dù tù đầy, khảo tra/ Chỉ có nỗi nhục mới bắt ta vắng mặt/ Cho dù sự cay đắng đuổi sau lưng ta/ Chỉ có nước mắt người thân mới bắt ta quỳ xuống/ Cho dù bệnh tật ngấm vào xương tủy (40 năm gặp lại). Và đó là lý do ông tham dự trận tấn công cuối cùng/ Vào cái chết!
Như vậy, chỉ sợ mất niềm tin vào con người, chỉ sợ hết hy vọng vào cuộc đời, còn không, như một kinh nghiệm con người vẫn thường an ủi nhau, chắc chắn sẽ có một ngày các giá trị được trả về vị trí của nó, mọi điều tốt lành trên thế gian sẽ tìm được chỗ đứng dưới mặt trời, những con người tốt đẹp, có thể nở nụ cười tin yêu, bọn cơ hội sẽ không có đất tồn tại. Cái đẹp sẽ cứu rỗi thế giới, sự chủ động sẽ thuộc về người tốt: Lòng tốt của anh, lòng tốt của mọi người/… cao hơn cái chết (Hy vọng 2), Cái chết sẽ thua cuộc/ Là khi em mỉm cười (Một người). Sẽ đến một ngày tốt đẹp bình dị, đơn giản như cái tốt lấn dần cái xấu, như sự sống lấn dần cái chết, khi trong cuộc đời vẫn không mất đi nụ cười: “Tôi mừng cho nước sông Hương” Bởi vì, không có nỗi đau nào Sông Hương không rửa sạch (Sông Hương). Có phải đó là tinh thần chính của cuộc tấn công cuối cùng vào cái chết mà Nguyễn Khoa Điềm muốn nói tới? Nếu như vậy và cứ như vậy, một ngày đẹp trời nào đó, chúng ta sẽ đến những miền trong xanh mơ ước của mỗi con người. Đấy là tâm sự ông muốn gửi đến những ai chưa mất niềm tin vào tương lai chăng?
Với một cách tiếp cận như vậy, Cõi lặng lựa chọn gam giọng trầm buồn tha thiết sâu lắng để biểu hiện tâm trạng người viết, lựa chọn một thể thơ tự do với cấu trúc linh hoạt, một chất liệu ngôn ngữ bình dị chen lấn nhiều lời nói thường, đôi khi hài hước hóm hỉnh rất gần với ngôn ngữ giao đãi thường ngày (phải cái hơi móm/ cười trống trơ như Đỗ Phủ… Ái chà, xem ra bác còn khỏe hơn tôi…/ mừng bác một chén…) để không bị giới hạn trong việc biểu hiện con người tư tưởng, con người suy nghĩ về thế sự của mình. Đây là những bài thơ được viết sau thời kỳ Đổi mới, đời sống văn nghệ đã cởi mở hơn, những quan niệm giáo điều đã từng bước thay đổi, lối chụp mũ, quy kết chính trị chưa phải đã hết nhưng ngày càng trở nên lạc lõng. Đã có thể khá thoải mái biểu hiện những suy nghĩ, những tâm trạng riêng tư của mình, có quyền được lắng xuống, hát một lời buồn (Giọng cao bao nhiêu năm, giờ ta hát giọng trầm - Chế Lan Viên) đầy trăn trở mà không bị, không sợ bị bắt bẻ, làm phiền như văn chương ngày trước nữa. Trong Cõi lặng vẫn còn đó một Nguyễn Khoa Điềm luôn ở bên cạnh những vấn đề rất đáng quan tâm của cuộc sống ngày nào, nhưng như một bè trầm của bản giao hưởng, cái nhiệt huyết, hào sảng đã đằm sâu như sóng ở đáy sông trong những tâm sự, nghĩ suy, triết luận trước một thời điểm giã từ ồn ào, vinh quang, xí xố (Chế Lan Viên), trước một khoảng lặng yên: Anh soi thấy mặt mình…/ Không một tiếng động nào khác/ Tiếng đập trái tim anh. Đối diện với chính mình, lắng nghe trái tim mình, lời thì thầm trung thực từ bên trong mình, tạo nên những câu thơ “hướng nội”, những câu thơ cho ta niềm tin cậy như lời tâm sự chân thành của một người từng trải, đã đi qua nhiều cung bậc của cuộc đời.
Và cuối cùng Cõi lặng tự họa chân dung tâm hồn của nhà thơ. Dù trước một thực tại đan xen vui buồn như vậy, nhưng hơn hết, trong tâm hồn ông vẫn khao khát muốn làm một kẻ sĩ cưỡi trâu vào núi (Cáp quang), ở đây là một mình một ba lô và xe đạp, gió gọi anh đi…, sau những ngọn núi/ Sau cánh đồng (Dặn lòng), đi mãi vào rặng núi xa mờ, đến những miền trong xanh.
L.T.N
(TCSH329/07-2016)
.................................................
* Tạp chí Sông Hương số 156, tháng 2/2002.
** Lời tác giả, Thơ Nguyễn Khoa Điềm, Tuyển tập 40 năm do tác giả tự chọn, Nxb. Văn học, 2012, tr.6.
LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.
LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.
LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H
NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.
Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.
TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.
PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)
NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.
LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.
THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…
VŨ DUY THÔNG (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.
TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.
NGUYỄN THANH TÚ (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)
LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.
FAN ANHCon người khác con vật không chỉ ở đặc điểm con người có một bản ngã, một cái tôi luôn biến động, mấu chốt nằm ở chỗ, con người có thể có nhiều bản ngã khác nhau, tồn tại một cách âm thầm trong những thế giới mà nhiều khi ngay bản thân mỗi cá nhân chúng ta cũng không thể am tường hết.
VĂN CẦM HẢI(Nhân đọc “Giọng nói mơ hồ” - Nguyễn Hữu Hồng Minh. Nxb trẻ 1999)
ĐỖ NGỌC YÊNHồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử có thật. Hơn nữa ông đã từng làm đến chức quan Thái sư dưới thời nhà Trần khoảng từ năm 1370 - 1400, và lập nên nhà Hồ từ năm 1400 - 1407.
Phỏng vấn nhà nghiên cứu Nguyễn Việt - chuyên viên Hiệp hội CLB UNESCO Việt Nam – nhân cuộc triển lãm thư pháp thơ “Nhật ký trong tù” của Bác Hồ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế 8-2000
LÊ HUY QUANGVào ngày 19/5/2010 này, cả nước ta sẽ tưng bừng Kỷ niệm 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân Văn hóa thế giới, nhà thơ Hồ Chí Minh, một người Việt Nam đẹp nhất.