Nguyễn Khắc Thạch - người đi chân trần trên lưỡi dao bén của sự thật

10:48 12/09/2008
THÁI DOÃN HIỂUNguyễn Khắc Thạch làm thơ như đi chân trần trên lưỡi dao bén của sự thật, máu toé vãi ra. Anh lấy dự cảm của mình làm thuốc băng bó. Vết thương thành sẹo. Thạch gọi đấy là thơ! “Thơ là sẹo của sự thật”.

Như chàng “vệ sĩ của đêm đen” (chữ dùng của Ngô Minh). Nguyễn Khắc Thạch là người trầm tư trước cuộc đời, phán xét sự vật đến tận cùng bản chất, anh can đảm “hôn xác chết”, tự tin, lặng lẽ đối đầu với chúng. Đứng chênh vênh một chân bên dòng sông một bờ, Nguyễn Khắc Thạch rụt rè tường trình lại khá sắc bén và chọn lựa những phát hiện mới lạ về cõi người hiện sinh, chỉ ra những nguyên cớ đang huỷ hoại nhân tính làm tan rã các kỷ cương giường mối xã hội.
Thời tôi sống ruồi nhặng sành mâm cỗ
họ hàng tôm vẫn lộn đít lên đầu
chó ngoại hết hời ra kiếm ăn hè phố
trẻ bụi đời lòng cạn mắt sâu.

Thời tôi sống vô cảm điều trông thấy
dọc đường quan mặt nạ mặt tiền
những thầy tu hành đạo trên xe máy
hẳn đường về cõi Lạc có gần hơn.

Thời tôi sống giấc mơ vàng ô nhiễm
trọc phú lập loè như đom đóm ma trơi
tôi ươm bạc chay thiền phù phiếm
anh tinh đời vờ một gã ham chơi.

Thời tôi sống thương mình trơ cá gỗ
nỏ tơi mang mà chẳng áo công hầu
đất của cỏ thì trời cao gác trọ
sợ miếng mồi như cá sợ mắc câu.

Thời anh sống khác thời tôi sẽ viết
sống thời tôi chín dễ nên mười          
nhưng không dễ sống mà không biết
sống mà nghi mình có phải là người.
                                                     
(Gửi Nguyễn Trọng Tạo)
Sự bất lực trước đấng cao xanh, vĩnh hằng, nỗi cuồng say dâng hiến, bước đam mê gập ghềnh kiếm tìm nửa kia trong tình yêu, cái đẹp lao đao bởi thương tích đầy mình, tự do bị bắt chẹt, “những khoảng trống lương tri bị dối lừa”… đã dẫn đến những vỡ mộng, con người rơi vào cõi mênh mông buồn “Ta chẳng có gì ngoài ta – ngoài chẳng là gì trong ta – áo cơm bờm xơm vỗ mặt – hư danh cầm cố thi ca” (Tự khúc). Thơ Nguyễn Khắc Thạch buồn, mang mang nỗi buồn trước hy vọng và tuyệt vọng, trước nỗi quay quắt của áo cơm cùng sự khủng hoảng đức tin, trước sự dấn thân trong nước mắt tủi hờn đầy kiêu hãnh. Chẳng riêng gì Thạch, Cụ Nguyễn Du xưa cũng đã từng than “Cổ kim hận sự thiên nan vấn” (Những mối hận xưa nay khó mà hỏi trời được). Người ta khổ vì có trí tuệ, Thạch khổ vì biết quá nhiều! Anh gọi nỗi buồn về nhận mặt, bóc trần nó ra cho mọi người thấy. Nhà thơ không ngồi nhấm nháp tận hưởng thú đau thương như Lưu Trọng Lư, anh thành khẩn nhìn thẳng vào nỗi buồn để nhận diện chính mình và mọi lẽ quan thiết khác ở đời. Cuộc tìm kiếm mình là một hành trình khổ ải “Ta mang lỗi lầm của máu không đổi màu - Sự nhức nhối thời gian hoá thạch” (Nơi ta sẽ về). Năng lượng cảm thức sâu sắc của nhà thơ đã thuyết phục được chúng ta. Chính vì vậy, đến với thơ Nguyễn Khắc Thạch đòi hỏi ở bạn đọc ít nhiều đồng điệu.
Đầu này một chiếc dép
chỉ một chiếc dép đầu này
mà đầu kia phải lệch
mà đầu kia là cả… không gian
                                      (Bồ Đề Đạt Ma)
Đắng cay nào đắng cay hơn:
Tôi như gã tín đồ bị rút phép thông công
khi thiên đàng dang ngang sợi tóc
em soi vào tôi gương mặt người đàn ông khác
em chỉ sống vì tôi khi đã chết cho người
                                                            (Mặc cảm)
Có nỗi đau nào đau hơn:
Ta ngồi dại hoá đôi khi
Thèm đau lần nữa những gì đã đau
                                               
(Gửi trăng)
Khi thịnh cần cẩn trọng, khi suy cần nhẫn nại. Mọi con đường phần cuối giống nhau, chỉ khác nhau phần đầu. Điều trọng yếu là phải biết sử dụng đời sống, chứ không than vãn để kéo dài tuổi sống. Mặc dù thế giới đầy khổ ải, song cũng đầy những tấm gương vượt qua bể khổ ấy bằng chính con thuyền thơ mỏng manh của mình.
“đứa con hoang của mọi tín điều…”, thi nhân trở dạ làm thơ trong tâm thế ấy. Mạch thơ sám hối, trầm uất lung linh lan toả phản ánh sự chiêm quan khắc khoải, quằn quại bởi roi vọt tai ương và giàn giụa nước mắt cô độc. Giống như chúa Giêsu lê nặng cây thánh giá. Nguyễn Khắc Thạch oằn lưng vác nỗi khổ đau của đời người “Anh cứ đi như chiếc bóng giữa đời – Mong tìm được những gì không mất”.  Nhà thơ phơi trần góc khuất tâm linh, chiếu rọi ánh sáng lương tri lương năng để phục sinh mình. Thơ Thạch được thai nghén trong sự tuyệt vọng “anh như xác vỏ chai lăn ra ngoài cuộc rượu” để sinh hạ ra những đứa con của sinh tồn.Trong một chừng mực nào đó, cảm quan của nhà thơ thiếu sáng, có lúc duy lý đến phũ phàng:
Tôi say lấp chiều lỗi hẹn
có như không là gió là lời
đêm cất vó tang bồng tơ nhện
đom đóm lập loè vỗ mặt trêu ngươi
           
Tôi say sấp chiều đêm rơi
ngõ buồn khê ngọt đường hoa trái
Rồi sẽ đắng người ơi khi tỉnh lại
thấy những điều giả dối trong nhau
                                                  (Ẩn ức)
Mở mặt chào cơm áo
Ôm lòng buốt ngọc châu
Mắt chiều vô tôn giáo
Nhắm linh hồn vào đâu.
                                   
(Tứ thơ)
Thơ Nguyễn Khắc Thạch hút người bằng tâm tình kín đáo, là tiếng vọng của nỗi buồn thấm, cao khiết, trang trọng.
Trời tròn lưng bánh tét
Đất vuông lòng bánh chưng
Dân nghèo thương ngày tết
Gói đất trời rưng rưng.
                                      
(Gói)
Biển như ngân giữa hồn tôi
Câu thơ nghiêng biển nghiêng trời là em
                                                            (Biển và em)
Nhà thơ luôn sống một thế giới ảo:
Có một mùa hè mắc cỡ
Cỏ hoang neo gió sững sờ
Lá bàng rơi nung lửa nhớ      
Đài sen rụng vỡ hương mơ
                                      (Kí ức)
Xuân biên giới với nét cọ phác thoáng đẹp đến thắt lòng :
Nơi ấy xuân về sớm hơn
Nắng trở mình phơi mái núi
Rừng già loà xoà bóng tuổi
Vội xanh lại mé đông tàn.
                                     
(Biên giới)
Nhà thơ đằm mình trong sự chiêm nghiệm, suy tưởng đến kiệt cùng:
Hạt mưa cứ ngỡ của trời
Ai ngờ đất khát vẽ vời làm mưa
Nối bây giờ với xa xưa
Biết mưa còn nối bây giờ - mai sau?
Hạt mưa tan vỡ vì nhau
Hình như mưa cũng đổi màu buồn vui.
                                                            (Mưa)
Nỗi buồn đó của Nguyễn Khắc Thạch mang một hình thái cứu rỗi. “Loại thơ cao siêu luôn hướng tới sự bất tử trong nỗi thống khổ của con người”. Từ mấy thế kỷ trước, Vonter đã chỉ ra như thế.
Thơ Nguyễn Khắc Thạch được nuôi dưỡng bằng một thứ tình yêu trần trụi, máu thịt nên kiệm lời, tứ đúc, ý tưởng dồn nén trong từng câu chữ. Nó là một thứ văn bia tác động đến tư duy trước, truyền mỹ cảm đến sau.
Bên thềm hoang
thiếu phụ
thoát y nằm
Ngọn nến cháy
sau vầng trăng khuyết…
                                    (Thiền)
Người qua đêm mang đêm đi xa
Đêm thắp nến hàn trăng lữ thứ
Đêm thấm khát màu son trinh nữ
Để tái sinh cho huỷ diệt sau cùng…
                                                (Đêm)
Nhà thơ sống trong linh giác mùa thu “Nắng thun chiều gió úa cài then”; sống trong cơn uất ức “biên chế cõng mấy nhà thơ tầng trệt – ăn nói cao hơn tầm thước con người” (Gửi Nguyễn Trọng Tạo); sống trong tâm trạng níu kéo sợ hãi “Muốn ôm chặt chiều - Chiều lại ngả vào đêm” (Chiều), bởi nhà thơ đinh ninh rằng mình đã bị lừa dối ngọt ngào “Tôi đi dọc tháng năm thừa – cô đơn úp mặt dối lừa cô đơn” (Gửi Nhật Lệ), Tín nghĩa bị xâm phạm, nhà thơ thắc mắc đến cái “đức tin có bảo hành – và chỗ dựa có đức tin - chỉ là những gì mong manh hư ảo” (Ý tưởng). Nhà thơ hoài nghi “chiếc mặt nạ hài hước - sự thật trở nên tàn nhẫn hơn”. Nhà thơ buồn vì “bao giờ con người cũng là một thực thể kép - ước vọng thì đầy nhớ tiếc thì vơi” (Thông cảm). Nguyễn Khắc Thạch luôn mặc cảm coi mình là kẻ đang lâm nạn “anh bị chém bằng lưỡi rìu ngôn ngữ - những đổ vỡ hư danh như hoàng hôn bầm dập đáy chiều - bức tranh món ăn không no được bụng - hiện thực cục cằn như kẻ đói yêu…” (Hiện thực). Không có gì làm ta cao thượng bằng một niềm đau khổ  lớn lao. Trông cây mà ngẫm đến mình “Thấy thương cây cũng cụt đầu vì cao” (Với cây). Người ta thường căm ghét những gì làm họ sợ. Và, chết là sự giải thoát cho kiếp người “Áo cơm thôi sấp ngửa – Hương khói còn so đo - Những gì thắp được lửa - Rốt cùng đều thành tro” (Viếng mộ). Nhà thơ lại ngồi ước gì được quay về cái hồi  “Mải chơi tiền lá rụng đầy tuổi mơ”, mong lấy lại niềm tin xanh “Nơi cây cỏ trinh niềm hoang dã - mỗi bước đi qua xanh mãi thuở ban đầu”. Một người phải chờ đợi, thời gian dài, nặng nề và lạnh lắm “Đôi khi nghe cái quen nghe mà rợn – Chó sủa từ không thành có… đêm dài”  (Tiếng đêm). Nguyễn Khắc Thạch viết về thời gian khá hay và rất sâu. Theo anh, nó là khí cụ hiệu nghiệm để đong lường kiếp sống của chúng ta:
Ngày là kim chỉ thời gian
dại khờ khâu vá khôn ngoan kiếp người
ngày là lưỡi hái lường chơi
mỗi ngày liếm một mảng đời như không.
                                                           
 (Ngày)
Em chờ anh
sau mặt phẳng thời gian cuốn chiếu
hồn đá vọng phu
nửa thừa mang tang nửa thiếu
                                                (Hoài vọng)
Thời gian như cái thùng bia
Rót vào cốc chén là chia tháng ngày

Không gian như nắm bàn tay
mở ra cầm chốn lưu đày bể dâu

Người ta vói mắc hai đầu
Thả mồi bong bóng mà câu… chính mình
                                                           
(Ngộ)

Chừng ấy đủ biết Nguyễn Khắc Thạch là người đang bệnh! Anh mắc chứng đa cảm trầm kha. Thà bị bệnh ở thể xác còn hơn bệnh ở tâm hồn. Bệnh tật của tâm hồn còn đáng sợ hơn bệnh tật của thân thể. Thân bệnh có thể nhờ người khác chữa dùm, nhưng tâm bệnh phải chính mình chữa lấy. Chúng tôi thấy Nguyễn Khắc Thạch cũng đang tự chữa cho mình rồi đấy. “Những căn bệnh tuyệt vọng cần những liều thuốc tuyệt vọng” (Ngạn ngữ Anh). Điều chính yếu trong cuộc đời là không nên than vãn điều gì và không bao giờ nhìn lại những đổ vỡ phía sau.
Nguyễn Khắc Thạch có một bài thơ thuộc hàng kiệt tác khi anh viết về tình yêu đơn phương. Ngọc toàn bích không hề gợn một chút tì vết nào:
Có một dòng sông mang tên em,
Dòng sông anh tự đặt
Xin mùa thu chiếc lá làm thuyền

Có một dòng sông  trôi vào lãng quên
nước trong như nước mắt
điều chưa đến mà sao thấy mất

Có một dòng sông chỉ có một bờ
Phía bên kia quay mặt
dòng sông anh không qua được bao giờ.
                                                (Dòng sông một bờ)
Tiếp tục lối tư duy đó, Nguyễn Khắc Thạch mạnh bạo, phóng túng và quả quyết phá vỡ cấu tứ niêm luật truyền thống, làm cho cổ điển và tự do hài  hoà vào nhau tạo nên một từ trường mới bằng một thi pháp mới:
Hồn của mưa làm lạnh cơn mưa xác
khiến cơn mưa đồng loã giọt buồn
để em thấy mưa là nước mắt

Những cơn mưa tái sinh màu đất
những cơn mưa thuỷ táng khung trời
để em thấy mưa là hai mặt

để em thấy mưa là chia cắt
phía thành sông vẫn chảy rẽ chia bờ
để em thấy mưa không dập tắt
cõi mật tinh lửa vẫn cháy trong mơ…
                                                (Mưa hai mặt)
Từ thi pháp hiện đại đó, Nguyễn Khắc Thạch rất có ý thức lập tứ cho từng bài thơ, từng câu thơ, dựng lên được xương cốt vững chãi cho toàn bài thơ. Thử xem, anh đã khắc đá được một chân dung tính cách chân xác nhờ cung cách đó như thế nào:
Ông vốn trắng tay không chải đầu bằng lược
Cái đầu nhà thơ đâu cần sự ve vuốt nào
Ông nuôi rượu canh giữ lòng trung thực

Và ông đã nhặt được chính mình từ những thứ đem cho
Có nỗi đau ngoài tầm nước mắt
Cánh chim cô đơn khi vượt trước bầy đàn.
… Ông đã vớt thơ ra khỏi sóng đời mình…
                                               
(Trích ngang Phùng Quán)

Thơ Nguyễn Khắc Thạch ánh lên chất mỉa mai, phúng thích thói đời và những mặt trái của đời sống xã hội để người đọc nhận thức nó, thấm thía phẫn nộ vì nó:
Ai đã thấy những gì cao hơn các tượng đài
Những gì sâu hơn đáy cốc trên bàn tiệc
Ai đã lấy ngực che Tổ quốc?
Còn ai đem Tổ quốc che thân?
                                    (Những câu hỏi bâng quơ)
Khi niềm tin ta đã đóng đinh
thì cây thánh giá kia
cần chi phơi hình Chúa

Sự thật là thanh gươm lành trong vỏ
nhưng rút ra rồi…nó đau đớn biết bao.
                                                           
(Trả giá)
Một số nhà thơ cả trẻ lẫn già bây giờ ưa chạy theo thi pháp hình thức mà lờ đi thi pháp nội dung. Họ chỉ tạo ra những cách nói lạ tai nhưng vô nghĩa. Nguyễn Khắc Thạch quan tâm cân đối cả hai. Những đoạn thơ vừa dẫn trên  rất dân tộc và cũng khá hiện đại. Thi pháp ấy súc tích đến mức đã tạo ra những khoảng lặng cho người đọc ngẫm nghĩ.
Cây lá tự rứt mình trả nợ đất đai
Câu thơ rứt nỗi buồn chết không thành xác
Cuộc vay trả quy đồng cỏ rác
Rợn lối mòn ảo giác mùa thu.
                                   
(Ảo giác mùa thu)
Cá tính sáng tạo thơ tạo nghĩa với hai yếu tố triết và thiền của Nguyễn Khắc Thạch mạnh, hình thành nên bản lĩnh thơ. Các thi phẩm của anh đều mang dấu ấn hiện đại, nhân bản.
Giữa hai dòng thơ “phấn son” và thơ “lem luốc”, thơ Nguyễn Khắc Thạch thuộc dòng thứ hai.
“Thảy vốn liếng đời ta nhóm lửa yêu thương”, Nguyễn Khắc Thạch đã huy động óc tim cùng với “âm bản của nước mắt”, phát giác bề sâu sự vật, chế tạo được thứ cốt mìn chứa đầy buồn đau và trách nhiệm đang “nổ tung những nhịp thơ đá vỡ” (chữ của Nguyễn Trọng Tạo).
                                                                                                            T.D.H

(nguồn: TCSH số 228 - 02 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONG"Tôi ngồi nhớ lại tất cả nỗi trầm tư dài bên cạnh mớ hài cốt khô khốc của anh Hoàng. Trước mắt tôi, tất cả cuộc sống đầy những hùng tráng và bi thương vốn đã từng tồn tại trên mảnh đất rừng này, giờ đã bị xoá sạch dấu tích trong sự câm nín của lau lách. Như thế đấy có những con đường không còn ai đi nữa, những năm tháng không còn ai biết nữa, và những con người chết không còn hắt bóng vào đâu nữa...

  • LÊ THỊ HƯỜNG1. Yêu con người Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thơ, quý con người Hoàng Phủ trong văn, tôi đã nhiều lần trăn trở tìm một từ, một khái niệm thật chính xác để đặt tên cho phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường.

  • TRẦN THÙY MAICó lần anh Hoàng Phủ Ngọc Tường nói: tính chất của người quân tử là phải "văn chất bân bân". Văn là vẻ đẹp phát tiết ra bên ngoài, chất là sức mạnh tiềm tàng từ bên trong. Khi đọc lại những bài nghiên cứu về văn hóa – lịch sử của anh Tường, tôi lại nhớ đến ý nghĩ ấy. Nếu "văn" ở đây là nét tài hoa duyên dáng trong từng câu từng chữ đem lại cho người đọc sự hứng thú và rung cảm, thì "chất" chính là sức mạnh của vốn sống, vốn kiến thức rất quảng bác, làm giàu thêm rất nhiều cho sự hiểu biết của người đọc.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCXuất thân từ một gia đình hoàng tộc, cử nhân Hán học, giỏi chữ Hán, thông thạo chữ  Pháp, từng làm quan dưới thời Nam triều, nhưng Ưng Bình Thúc Giạ Thị là một nhân cách độc đáo.

  • HỮU VINH Chúng ta đã thưởng thức thơ, ca Huế, ca trù, hò, tuồng của thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một nhà thơ lừng lẫy của miền sông Hương núi Ngự. Nhưng nói đến sự nghiệp văn chương của thi ông mà không nói đến thơ chữ Hán của thi ông là một điều thiếu sót lớn.

  • ĐỖ LAI THÚYQuang Dũng nói nhiều đến mây, đặc biệt là mây trời Sơn Tây, Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm! Mây là biểu tượng của tự do, của lãng du. Mây trắng là xứ sở của tiêu dao trường cửu. Chất mây lãng tử ở Quang Dũng, một phần do thổ ngơi xứ Đoài, phần kia do văn học lãng mạn.

  • CAO XUÂN HẠOĐọc bài Nỗi đau của tiếng Việt của Hữu Đạt (H.Đ) trong tuần báo Văn nghệ số 9 (2-3-2002), tôi kinh ngạc đến nỗi không còn hiểu tại sao lại có người thấy mình có thể ngồi viết ra một bài như thế. Tôi cố sức bới óc ra nghĩ cho ra người viết là ai, tại sao mà viết, và viết để làm gì. Rõ ràng đây không phải là một người hoàn toàn không biết gì về giới ngôn ngữ học Việt . Nhưng hầu hết những điều người ấy viết ra lại hoàn toàn ngược với sự thật.

  • MAI VĂN HOAN.Tôi biết Nguyễn Duy qua bài thơ “Tre Việt ” in trên báo Văn Nghệ. Từ đó, tôi luôn theo sát thơ anh. Mở trang báo mới thấy tên anh là tôi đọc đầu tiên. Với tôi, anh là một trong những người hiếm hoi giữ được độ bền của tài năng.

  • THỦY TRIỀU SUNG HUYỀN"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã từng có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Đành rằng ngôn ngữ thơ ca thường hàm súc, cô đọng, đa nghĩa do đó có thể có nhiều cách tiếp cận tác phẩm.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMỗi loại hình nghệ thuật ngôn từ đều có phong cách riêng trong cư xử với đối tượng mà nó phản ánh. Chính vì thế, đề tài tiểu thuyết trong khi mang những tính chất chung có của mọi thể loại văn học, nó đồng thời mang những tính chất riêng chỉ có của thể loại tiểu thuyết.

  • VĂN TÂMNhà thơ Bằng Việt (tên thật Nguyễn Việt Bằng) tuổi Tỵ (1941) quê "xứ Đoài mây trắng lắm", là một trong những thi sĩ bẩm sinh của thơ ca Việt hiện đại.

  • THANH THẢOHoàng Phủ Ngọc Tường có tập thơ "Người hái phù dung". Hoa phù dung sớm nở tối tàn, vẫn là loài hoa hiện hữu trong một ngày.

  • JOSH GREENFELDNgười Nhật vốn nổi tiếng vì tính bài ngoại của họ, thể hiện qua nghệ thuật cắm hoa và trà lễ. Tuy nhiên cũng từ rất lâu rồi nhiều nhà văn Nhật Bản vẫn quyết liệt phấn đấu mong tìm kiếm một chỗ đứng đáng kể trên các kệ sách của các thư viện nước ngoài. Họ làm thế không chỉ vì có nhiều tiền hơn, danh tiếng hơn mà còn vì một điều rằng những ai có tác phẩm được dịch nhiều ở nước ngoài thì sẽ được trân trọng, chờ đón ở trong nước!

  • BỬU NAM            Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của văn hào Victor Hugo (1802 - 2002)1. Người ta thường gọi Hugo là “con người đại dương”. Bởi sự vĩ đại của tư tưởng và sự mệnh mông của tình cảm của ông đối với nhân dân và nhân loại, bởi sự nghiệp đồ sộ của ông bao hàm mọi thể loại văn học và phi văn học; bởi sự đa dạng của những tài năng của ông in dấu ấn trong mọi lĩnh vực hơn hai thế kỷ qua trong nền văn học và văn hóa Pháp. Đến độ có nhà nghiên cứu cho rằng: Tất cả những vấn đề lớn của nhân loại đều hàm chứa trong các tác phẩm của Hugo như “tất cả được lồng vào tất cả”.

  • LẠI MAI HƯƠNGTiểu thuyết Những người khốn khổ có một số lượng nhân vật nữ rất đông đảo, nhưng mỗi nhân vật mang một sức sống riêng, một sinh lực riêng bởi nghệ thuật xây dựng các nhân vật này không hoàn toàn đồng nhất. Bài viết sẽ đi vào khảo sát một số nữ nhân vật tiêu biểu, bước đầu thử tìm hiểu thủ pháp xây dựng và cái nhìn của Hugo đối với loại nhân vật này.

  • PHẠM THỊ LYTôi viết những dòng này vì biết rằng giáo sư Cao Xuân Hạo sẽ không bao giờ trả lời bài viết của một tác giả như anh Phạm Quang Trung và những gì mà anh đã nêu ra trong bài "Thư ngỏ gửi Giáo sư Cao Xuân Hạo đăng trên Tạp chí Sông Hương số 155, tháng 1-2002.

  • LÝ HOÀI THU“Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” ( *) (nguyên bản: Hoàng Hà luyến, Hồng Hà tình) là tác phẩm hồi ký của bà Trần Kiếm Qua viết về lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn và đại gia đình Trung Việt của ông. Bằng sức cảm hoá của những dòng hồi ức chân thực, tác phẩm của phu nhân tướng quân đã thực sự gây xúc động mạnh mẽ trong lòng bạn đọc Việt .

  • NGUYỄN BÙI VỢICách mạng tháng Tám thành công, Phùng Quán mới 13 tuổi. Mồ côi cha từ năm 2 tuổi, cậu bé sinh ra ở làng Thuỷ Dương xứ Huế chỉ được học hết tiểu học, sáng đi học, chiều giúp mẹ chăn trâu, có năm đi ở chăn trâu cho một ông bác họ.

  • TRẦN HUYỀN SÂM Người tình là một cuốn tiểu thuyết hiện đại nổi tiếng của M.Duras. Tác phẩm đoạt giải Goncourt 1984, và đã từng gây một làn sóng xôn xao trong dư luận. Người tình được tái bản nhiều lần và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tác phẩm cũng đã được chuyển thành kịch bản phim 1992 (qua đạo diễn Jean-Jacques Annaud).

  • ĐÀO NGỌC CHƯƠNGCho đến nay những ý kiến về phương diện thể loại của tác phẩm Chơi giữa mùa trăng của Hàn Mặc Tử vẫn chưa thống nhất. Theo Trần Thanh Mại, đó là bài văn xuôi: “Nay xin đơn cử ra đây một vài đoạn của một bài văn xuôi của Hàn để chứng tỏ thêm cái sức cảm thụ vô cùng mãnh liệt ở nơi nhà thơ lạ lùng ấy.