ĐỖ LAI THÚY
Ngồi buồn lại trách ông xanh
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
(Nguyễn Công Trứ)
Nguyễn Công Trứ - Ảnh: internet
Đọc Nguyễn Công Trứ, ai cũng cảm thấy ở thi nhân hai nhịp mạnh là chí nam nhi và tư tưởng hành lạc. Đọc sâu ông, vì vậy, thực chất là lý giải hai chiều kích đối lập nhau trong một con người này. Nếu nhìn Nguyễn Công Trứ chỉ như một nhà nho thuần túy thì đó là một nan đề bất khả giải. Còn coi ông như một nhà nho đã cườm vào những yếu tố phi nho thì đó là sự mâu thuẫn giữa Nho giáo và tư tưởng Lão Trang được dùng như một biện chính cho hành lạc. Và, để thống nhất hai mâu thuẫn trên, người ta thường đặt chúng kế tiếp nhau trên trục thời gian đời người: trẻ Nho già Lão. Nhưng, vấn đề là, ở Nguyễn Công Trứ, hành đạo và hành lạc lại tồn tại đồng thời, cùng lúc và xoắn luyến nhau suốt cuộc đời nhà thơ. Gỡ tiếp nút thắt trên, Trương Tửu coi đấy là sự trả thù trái khoáy, cả ở cạnh khía cá nhân lẫn trên phương diện đẳng cấp, của một nhà nho với tầng lớp phú hộ trên chính điểm mạnh của nó là sự ăn chơi bằng một ăn chơi khác, có nghệ thuật, có triết lý(1). Đọc sau những đọc trên, tôi muốn tìm một thông diễn khác.
Con người, tôi nghĩ, là một động vật lưỡng thê. Trước hết, trong mỗi con người, ở cội nguồn vô thức của nó, theo S.Freud, bao giờ cũng tồn tại cùng lúc những xung năng đối lập nhau, nhưng lại tương tác với nhau, như yêu ghét, nguyên lý khoái lạc và nguyên lý thực tiễn, bản năng sống (eros) và bản năng chết (thanatos)... Những đối lập nhau này, ở Nguyễn Công Trứ, trên tư cách là một con người sinh học, đó là hành đạo và hành lạc. Còn với tư cách là một nhà nho, ở cội nguồn tinh thần của nó, là tư tưởng Nho giáo và tư tưởng Lão Trang. Nho giáo Việt Nam chỉ hưng thịnh từ Lê Thánh Tông, nên trước đó, để thích nghi tồn tại, nó phải dung hòa ít nhiều với Phật giáo và Lão giáo. Sau một thời kỳ độc tôn, đến Lê mạt, nó lại phải hòa đồng lần thứ hai, mà Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh của Ngô Thì Nhậm là tác phẩm tiêu biểu cho tư tưởng tam giáo đồng nguyên này. Có điều với các nhà nho tài tử ở giai đoạn này thì tư tưởng đạo gia cao thâm huyền nhiệm trở thành triết lý biện chính cho tư tưởng hành lạc. Hơn nữa, ở giai đoạn này, sự phát triển của đô thị thương mại, của tư tưởng thị dân đã ngấm dần vào các nhà nho khiến ý thức cá nhân ở họ bước đầu phát triển(2). Điều này làm cho con người không còn trùng khít với chính bản thân nó nữa: trong con người có một con người. Tức, ở Nguyễn Công Trứ, trong con người nhà nho có con người Trang Tử. Hai con người đối lập nhau này, hành đạo và hành lạc, song song tồn tại vừa phải ứng xử với xã hội bên ngoài, vừa phải ứng xử nội bộ, tức ứng xử giữa hai con người bên trong này với nhau, để tìm ra một phương án tối ưu cho tồn tại, trước hết, của Nguyễn Công Trứ.
Tư tưởng hành đạo của nhà nho nói chung, như một thuộc tính của anh ta, được Nguyễn Công Trứ gọi bằng một cái tên rất đặc thù cho/của ông: Chí nam nhi.
Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc,
Nợ tang bồng vay trả trả vay.
Chí làm trai nam bắc đông tây,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.
Nhân sinh thế thượng thùy vô nghệ,
Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh.
Đã chắc rằng ai nhục ai vinh,
Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộ?
Cũng có lúc mây tuôn sóng vỗ,
Quyết ra tay trèo lái trận cuồng phong.
Chí những toan xẻ núi lấp sông,
Làm nên đấng anh hùng đâu đó tỏ.
Đường mây rộng thênh thênh cử bộ,
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo.
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.
Căn cốt của chí nam nhi, như vậy, vẫn là con đường nho gia truyền thống: học hành → thi đỗ → làm quan → hành đạo. Đây là thông lộ/ lệ dẫn đến nghề làm quan/ thư lại thuần túy. Nhưng đấy cũng là niềm mơ ước của Nguyễn Công Trứ và các nho sinh cùng thời với ông. Bởi lẽ, suốt Lê mạt, chiến tranh liên miên giữa các tập đoàn thống trị khiến Nho giáo bị mất giá, thi cử bị đình hoãn. Đến Nguyễn sơ, đất nước thống nhất trở lại, Nho giáo được khôi phục để làm công cụ xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế mới. Đấy là chưa kể lúc này phong khí nho gia lên cao vì nhà Nguyễn tiếp tục xiển dương Tống nho (Tân Khổng giáo) và, do đó, cho rằng mình chính thống hơn nhà Thanh dị tộc(3). Khoa cử, con đường tiến thân duy nhất này, là một khát vọng, một lối thoát với chàng trai nghèo nhưng giàu chí tiến thủ, tài năng nhưng lận đận trường ốc.
Tuy nhiên, với Nguyễn Công Trứ, bằng những trải nghiệm đời sống riêng của mình, ông đã “lạ hóa” lối mòn này, truyền cho nó một sức hấp dẫn mới, một động lực mới. Trước hết, những hình tượng ám ảnh của thời thơ ấu về những nhân vật “dọc ngang ngang dọc” một thời như Quang Trung Nguyễn Huệ, Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Ánh... còn để lại nhiều dư vọng. Đấy là thời người ta có quyền chọn chủ: theo/ chống Lê Trịnh, theo/ chống Tây Sơn, theo/ chống Nguyễn Ánh, hoặc chính mình trở thành, nếu có tài năng hoặc cơ may lịch sử, trở thành những nhân vật thời đại. Nay những dư ảnh trên được tháp vào con người hành đạo nho gia để trở thành một quan niệm sống mới, tích cực hơn, ít nhiều thích nghi khuôn khổ của chế độ chuyên chế nhà Nguyễn giai đoạn đầu. Đó là quan niệm con người sống ở trên đời này phải để lại một sự nghiệp, tức để lại danh tiếng, như “trâu chết để da, người ta chết để tiếng”:
- Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
- Có sự nghiệp đứng trong trời đất
Không công danh thì nát với cỏ cây
- Vũ trụ giai ngô phận sự
Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn
Có lẽ thế, nên trong cuộc đời của mình, Nguyễn Công Trứ không cam tâm làm một viên quan thư lại thuần chủng. Ông đã trở thành một nho tướng dùng mưu lược của mình dẹp yên các cuộc bạo loạn của nông dân và những tộc thiểu số câu kết với bọn giặc cướp ở biên giới miền núi phía Bắc, vùng duyên hải phía Đông, đứng đầu là Nông Văn Vân, Phan Bá Vành... Hoặc lập các chiến công thành Trấn Tây ở phía Nam đất nước. Ngoài ra, ông cũng còn là người có tầm nhìn xa trong việc quai đê lấn biển mở ra hai huyện Tiền Hải, Kim Sơn cho dân nghèo và những người, do nghèo, đã từng làm loạn, được yên bề làm ăn sinh sống.
Một con người với tài năng và ý chí như vậy đã trở thành ngoại cỡ với khung khổ của chính quyền chuyên chế. Từ vua Minh Mạng, vua Thiệu Trị đến vua Tự Đức đều không thể dùng ông và cũng không thể không dùng ông. Con đường hoạn lộ của Nguyễn Công Trứ, vì thế, lên voi xuống chó thất thường, lúc thì chỉ một vài năm đã lên tới thượng thư, tổng đốc, lúc thì đùng một cái xuống làm lính thú nơi biên ải. Chuyện kể rằng khi ông mặc áo lính đến trình diện tuần vũ Quảng Ngãi để chờ lệnh phái đi đồn thú thì viên quan chủ tỉnh này cứ nhất thiết bắt ông thay đổi binh phục và mời ngồi lên ghế. Ông điềm nhiên nói: khi làm đại tướng tôi không lấy làm vinh, nên khi làm tên lính cũng không lấy làm nhục, quan lớn cứ để tự nhiên cho. Sở dĩ Nguyễn Công Trứ có “thái độ trò chơi” như vậy, tôi nghĩ, ông coi “gian nan là nợ anh hùng phải vay”.
Từ quan niệm tam tài, trong đó con người là gạch nối giữa trời và đất, Nguyễn Công Trứ cho rằng người anh hùng, trong đó có ông, là sự chung đúc của khí thiêng sông núi: “Thiên phú ngô, địa tái ngô/ Thiên địa sinh ngô nguyên hữu ý./ Dã thị giang sơn chung tú khí, Quả nhiên đài các xuất danh công” (Trời che ta, đất chở ta/ Trời đất sinh ta vốn có chủ ý./ Vốn là non sông chung đúc khí tốt lại./ Quả nhiên làm được một người có danh vọng ở nơi đài các). Người anh hùng, do vậy, mang nợ trời sinh đất dưỡng. Giống như người Kitô hữu, sinh ra đã mắc tội tổ tông, nên sống với anh ta là một quá trình chuộc tội. Còn với Nguyễn Công Trứ, sống là một quá trình trả nợ. Đầu tiên là nợ gian nan, bởi chỉ có gian nan mới tôi luyện nên người anh hùng, rèn nên chí khí của anh ta, dù cái chí ấy, xét cho cùng, vốn là một thuộc tính (chứ không phải công năng) của người anh hùng.
Đọc Nguyễn Công Trứ, vì vậy, có thể thấy từ chí và nợ có khả năng thay thế nhau trong một loạt các trường hợp như chí/ nợ nam nhi, chí/ nợ tang bồng... Có chí để trả nợ và để trả nợ nên có chí. Nợ và chí thống nhất với nhau, tuy hai mà một. Như vậy, Nguyễn Công Trứ tự đeo vào mình rất nhiều món nợ và quyết tâm trả nợ, đặc biệt là nợ tang bồng:
- Nợ sách đèn đem nghiên bút trả xong
Duyên ngư thủy hội long vân còn đó
- Tài bộ thế mà công danh lại thế
Nợ trần hoàn quyết trả lúc này xong
- Đố kị sá chi con tạo hóa
Nợ tang bồng quyết trả cho xong
- Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo
- Nợ tang bồng trang trắng mặt nam nhi
Đấy là trách nhiệm của kẻ sĩ, một nhân vật kết tinh lý tưởng của nho gia. Nguyễn Công Trứ bao giờ cũng tự nhận mình là kẻ sĩ, hành động theo lý tưởng kẻ sĩ. Bài Kẻ sĩ của ông không chỉ cho chúng ta một kẻ sĩ lý tưởng chung cho mọi nhà nho, mà còn là một kẻ sĩ mang đậm dấu ấn của nhà nho thời Nho giáo phục hưng đầu Nguyễn:
Tước hữu ngũ, sĩ cư kỳ liệt,
Dân hữu tứ, sĩ vi chi tiên.
Có giang sơn thì sĩ đã có tên,
Từ Chu, Hán, vốn sĩ này là quý.
Miền hương đảng đã khen rằng hiếu đễ
Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường.
Khí hạo nhiên chí đại chí cương,
So chính khí đã đầy trong trời đất.
Lúc vị ngộ, hối tàng nơi bồng tất,
Hiêu hiêu nhiên, điếu Vị, canh Sằn,
Xe bồ luân chưa gặp Thang, Văn,
Phù thế giáo một vài câu thanh nghị,
Cầm chính đạo để tịch tà cự bí,
Hồi cuồng loan nhi chướng bách xuyên,
Rồng mây khi gặp hội ưa duyên,
Đem quách cả sở tồn làm sở dụng.
Trong lăng miếu ra tài lương đống,
Ngoài biên thùy vạch mũi can tương.
Sĩ làm cho bách thế lưu phương,
Trước là sĩ sau là khanh tướng.
Kinh luân khởi tâm thượng,
Binh giáp tàng hung trung.
Vũ trụ chi gian, giai phận sự,
Nam nhi đáo thử thị hào hùng.
Nhà nước yên mà sĩ được ung dung,
Bấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch.
Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch,
Tiêu dao nơi hàn cốc thâm sơn.
Nào thơ, nào rượu, nào địch, nào đờn,
Đồ thích chí chất đầy trong một túi.
Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi,
Gẫm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanh.
Này này sĩ mới hoàn danh.
Bài thơ chia cuộc đời kẻ sĩ, đúng hơn hành trình một nhà nho trở thành kẻ sĩ, ra ba giai đoạn: 1) thời hối tàng, tức hàn vi, chờ thời “điếu Vị, canh Sằn”; 2) thời hiển đạt, tức hành đạo, “Trong lăng miếu ra tài lương đống,/ Ngoài biên thùy vạch mũi can tương”; thời nhàn dật, tức nghỉ ngơi, hưởng thụ, “Nhà nước yên mà sĩ cũng ung dung,/ Bấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch”. Đây là mô hình “ba giai đoạn” tiêu biểu cho mọi nhà nho. Ấn Độ giáo cũng chia đời người thành ba giai đoạn: 1) thời kỳ học tập; 2) thời kỳ làm giàu, hưởng thụ và 3) thời kỳ buông bỏ vào rừng ẩn cư tìm đường chứng ngộ. Con người nên sống hết mình ở từng giai đoạn để khi chuyển sang giai đoạn sau sẽ không còn hối tiếc thì mới mong có thành tựu. Với các nhà nho cũng vậy, cuối đời họ đến với Lão Trang cũng chỉ như một giai đoạn xả hơi, một sống vớt sau một hành trình mệt nhọc, căng thẳng. Riêng với Nguyễn Công Trứ, tuy Lão Trang, mà chủ yếu là Trang, xét cho cùng cũng chỉ là một yếu tố ngoại vi trong hệ tư tưởng Nho giáo, nhưng nó lại tồn tại ngay từ đầu, xoắn luyến với Nho và đi song hành suốt đời ông từ trẻ đến già. Hơn nữa, ông còn coi cuộc đi ấy là cuộc chơi, là trò chơi, là chơi. Không chỉ cầm kỳ thi tửu mới là chơi, mà công danh sự nghiệp cũng là chơi. Điều này, rõ ràng, không nằm trong sơ đồ chung của kẻ sĩ, mà của riêng Nguyễn Công Trứ, do sự quy định của thời đại ông một phần và phần khác, quan trọng hơn, cá nhân ông.
Thời đại Nguyễn Công Trứ, Nho giáo phục hưng trở lại, tuy chủ yếu vẫn ở tầng lớp thượng lưu. Nhưng, đây cũng là thời đại chứng kiến sự phát triển cả nội thương lẫn ngoại/ hải thương đang trỗi dậy trong lòng một xã hội nông nghiệp. Bởi thế, nó cũng là thời đại hình thành các đô thị trung đại và tầng lớp thị dân. Tư tưởng thị dân, vì vậy, tác động không nhỏ đến các nhà nho, trong đó không ít các nhà nho quan lại cũng tham gia vào việc buôn bán, dù là buôn bán cửa sau qua các bà vợ. Người thị dân, khác với người nông dân làng xã “ăn chắc mặc bền” và nhà nho chính thống “an bần lạc đạo”, chăm lo đến việc kiếm tiền để rồi hưởng thụ cuộc sống bằng những đồng tiền kiếm được của mình. Đây chính là nguồn gốc của tư tưởng hành lạc ở Nguyễn Công Trứ và một vài nhà nho khác. Tư tưởng này lại được triết học Trang tử biện chính cho để trở thành triết lý hành lạc. Với Nguyễn Công Trứ, một người sống giữa hai thời đại, hay chí ít tuổi thơ cũng sống với những âm vang của thời đại trước, thời đại anh hùng, nên con người ấy ít nhiều đã bị lưỡng phân. Một mặt, hành đạo hết mình và hành lạc cũng hết mình. Mặt khác, hành đạo và hành lạc, do tồn tại đồng thời, nên ít nhiều có chế ước lẫn nhau. Cả thời thanh/ trung niên sống trong nghèo túng, do ăn chơi và thèm khát ăn chơi, nên khi có điều kiện, Nguyễn Công Trứ coi ăn chơi như một thứ đạo sống: “Nhân sinh bất hành lạc/ Thiên tuế diệc vi thương”, “Cuộc hành lạc chơi đâu là lãi đấy/ Nếu không chơi thiệt ấy ai bù”, “Chơi cho lịch mới là chơi/ Chơi cho đài các cho người biết tay”... Nguyễn Công Trứ, như vậy, không chê cười người thị dân mà chỉ chê cười người thị dân không biết ăn chơi, không phê phán hành lạc mà chỉ phê phán hành lạc không có nghệ thuật, không có triết lý.
Thực ra, cái gọi là hành lạc với các nhà nho cũng chỉ là cầm kỳ thi họa. Các thú chơi này cần phải được học tập, đào luyện để nâng lên thành một nghệ thuật. Có như vậy nó mới trở thành một dấu hiệu khu biệt tầng lớp nho sĩ với các tầng lớp khác trong “tứ dân”. Tuy rằng, so với nho sĩ Trung Hoa, thì ở nho sĩ Việt Nam, tứ thú/ khoái này đã bị hạ xuống một bực qua việc thay họa bằng tửu. Liệu có thể người Việt không dồi dào năng khiếu hội họa? Hay tâm trí Việt thiên về thực dụng, nên muốn bay bổng, thăng hoa phải “dụng tửu”? Chỉ biết rằng với Nguyễn Công Trứ, ông đã chọn hát ả đào cho thú chơi của mình. Hát ả đào chẳng những hội tụ được bốn yếu tố hành lạc trên, cầm kỳ thi tửu, mà còn thêm một yếu tố thứ năm quan trọng nữa là sắc dục. Sự có mặt của người nữ với nhân vật chính là đào hát và các nhân vật phụ là đào rượu, đào chè thuốc điếu đóm... tạo ra một lực hấp dẫn mới với các nhà nho: “Tài tử với giai nhân nợ sẵn”, hoặc “Có yến yến hường hường mới thú”.
Tham dự hết mình vào thú ả đào, nhất là lại tự sáng tác ra các bài ca để đào nương hát, Nguyễn Công Trứ đã góp công lớn vào việc đưa loại hình ca hát này từ cửa đình về phường phố, một sinh hoạt tâm linh thành sinh hoạt đô thị, một diễn ngôn tôn giáo thành diễn ngôn nghệ thuật, hát nói, một thể loại thơ mới trong văn học Việt Nam. Loại hình sinh hoạt đô thị này với Nguyễn Công Trứ đã nâng lên đến đỉnh cao. Nó còn tiếp tục phát triển vào nửa sau thế kỷ XIX và đặc biệt nửa đầu thế kỷ XX với cả tầng lớp văn nghệ sĩ trí thức Tây học. Tiếc rằng, đô thị Việt Nam hình thành khá muộn, khoảng thế kỷ thứ XVII - XVIII, còn bị chìm lấn trong một biển tiểu nông. Đô thị chỉ tồn tại như một sự trương nở và phát triển một siêu làng, siêu chợ. Văn hóa đô thị, do đó, còn tồn sinh yếu ớt và chưa đủ bề dày thời gian để hình thành nên một tầng lớp ả đào, có tài năng nghệ thuật, có sắc đẹp, biết giao tiếp, ứng xử, như kỹ nữ của Trung Hoa, đặc biệt Gheisha của Nhật Bản, nhằm lưu giữ và phát triển nghệ thuật hát ả đào nói riêng và các nghệ thuật khác nói chung. Nhưng, chỉ với những gì vốn có, hát ả đào cũng đã tạo ra được một môi trường hành lạc, môi trường nghệ thuật, nơi các nhà nho bộc lộ được con người cá nhân, tuy chỉ là cá nhân tập đoàn, của mình, nơi nhiều dục vọng được thỏa mãn, đặc biệt nơi gặp gỡ và, do đó, nảy sinh những tình yêu tự do ngoài hôn nhân, nơi tài năng nghệ thuật, đặc biệt là hát nói, được phát triển.
Là một cây bút đa tài, đa diện, nhưng sự nghiệp văn chương của Nguyễn Công Trứ tựu lại ở hát nói. Khác với các nhà thơ đương thời quá thiên về thơ chữ Hán, đặc biệt là Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ đi hẳn về phía thơ Nôm. Hát nói, kể cả thơ Đường luật, của ông gần với ngôn ngữ của người bình dân, nhiều ca dao tục ngữ, không nhiều điển cố và đẹp lời như hát - nói - Dương - Khuê. Vốn một người có cá tính mạnh, tình cảm sôi sục, có lý tưởng sống rõ ràng, lại muốn nói hết ra, nên hát - nói - Nguyễn - Công - Trứ phảng phất hơi hướm thơ ngôn chí, một đặc sản của các nhà nho. Nhưng nhờ sống chủ động và sống ý thức dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, dù khi làm vị đại tướng cũng như khi làm tên lính thú, đặc biệt là dám bộc lộ con người đa dục của mình, Nguyễn Công Trứ đã phá vỡ công thức của thơ ngôn chí, khiến hát nói trở thành một thể loại mới. Có thể nói, hát nói Nguyễn Công Trứ là sự hạnh ngộ giữa một cá tính đặc biệt và một tài thơ đặc biệt.
Cuối đời Nguyễn Công Trứ làm Bài ca ngất ngưởng, một bài thơ vừa như một tuyên bố vừa như một tổng kết đời mình:
Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây cờ đại tướng,
Có khi về phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi!
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người thế thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng bằng ông.
Ngất ngưởng là một ứng xử/ thái độ/ lối sống chỉ sự vượt ra/ lên một mặt bằng nào đó, chiếm lĩnh một độ cao nào đó, nhưng ở trong thế chênh vênh, không vững vàng. Trong ba giai đoạn/ thời điểm quan trọng của cuộc đời bao giờ Nguyễn Công Trứ cũng là tay ngất ngưởng. Khi hiển đạt, ông ngất ngưởng vì mình có tài thao lược. Đến khi về hưu, một thời điểm quan trọng của cuộc đời, người ta thường luyến tiếc, buồn phiền hay vui sướng, cưỡi ngựa về làng thì ông lại ngất ngưởng cưỡi một con bò vàng nhưng đeo đạc ngựa, thậm chí còn đeo một cái mo vào chỗ ấy của con bò cái với dòng chữ “che miệng thế gian”. Sau khi về hưu, ông thường du sơn ngoạn thủy với cô đầu hoặc nàng hầu, đến nỗi “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”. Nhưng rồi khi đã “vào lồng” cũng như ở “ngoài vòng cương tỏa”, tuy ngất ngưởng là vậy, nhưng ông không thoát khỏi một cái lồng lớn hơn là “nghĩa vua tôi”, “đạo sơ chung”. Nghĩa là Nguyễn Công Trứ chỉ ngất ngưởng so với các nhà nho “trong triều”, các nhà nho... không ngất ngưởng. Ông không/ chưa có khả năng phá giới mình để chuyển sang một giới khác. Hay, nói khác, dù suốt đời sống ở mép rìa một hệ hình tư duy nhưng không thể vượt thoát để chuyển sang một hệ hình tư duy khác.
Như vậy, hai chiều kích hành đạo và hành lạc đối lập nhau trong con người Nguyễn Công Trứ đi suốt cuộc đời ông đến đây thì kết lại ở Bài ca ngất ngưởng như một thỏa thuận. Nếu cuộc đời Nguyễn Công Trứ là một cuộc chơi với hai “người chơi” là hành đạo và hành lạc, thì ngất ngưởng là kết quả của cuộc chơi đó. Giả sử hành đạo thắng thì Nguyễn Công Trứ trở thành một nhà nho chính thống, còn nếu hành lạc thắng thì Nguyễn Công Trứ không còn là một nhà nho nữa, mà là một nhà... hành lạc. Cả hai kết quả này đều làm cho trò chơi kết thúc và chúng ta không có được một Nguyễn Công Trứ như đã có. Ngày nay, theo lý thuyết trò chơi, người ta không còn chơi trò chơi “ai thắng ai” nữa, mà chơi trò chơi “cả hai cùng thắng”, đối thủ/ thụi trở thành đối tác để hai bên cùng có lợi. Hành đạo và hành lạc không chỉ đã trở thành đối tác của nhau để cuộc - chơi - Nguyễn - Công - Trứ mà còn tồn tại và làm tiền đề cho những cuộc chơi khác kế tục. Bởi thế, cuộc chơi của Nguyễn Công Trứ với bản thân mình chỉ là cuộc chơi nhỏ lồng trong một cuộc chơi lớn hơn. Đó là Nguyễn Công Trứ, ông được/ bị chơi với cả chế độ quân chủ chuyên chế đứng đầu là hoàng đế. Nhà vua, một mặt phải sử dụng người tài Nguyễn Công Trứ, mặt khác lại sợ tài năng đó ảnh hưởng đến uy thế của mình, nên chơi trò “ân uy”, cây gậy và củ cà rốt. Ân rất lớn như thăng quan vượt cấp, đối xử ân tình: khi đói thì dấu bạc vào phong thuốc lào gửi tặng, khi ốm thì sai ngự y mang thuốc men vượt đường xa đến tận nơi chữa bệnh. Còn uy thì cũng rất ghê: biết không có lỗi mà vẫn hạ chức, thậm chí cách tuột làm lính. Nguyễn Công Trứ đã đối ứng khôn ngoan với “phép thử” này và trong toàn bộ cuộc chơi. Ông không đặt cược toàn bộ đời mình vào hành đạo, mà bao giờ cũng dành cho mình một đường rút đó là hành lạc. Bởi vậy, sự thăng trầm, sự vinh nhục chốn quan trường không ảnh hưởng đến ông. Đây cũng chính là quy ước chơi chung cho mọi nhà nho phi chính thống trong chế độ quan chủ Nho giáo chuyên chế, bởi dù họ có xa chính thống đến đâu thì vẫn cứ là nhà nho. Chỉ khi nào quy ước chơi này bị phá vỡ bởi một quy ước chơi khác của người trí thức Tây học thì trò chơi này mới kết thúc. Như vậy, nguyện vọng của Nguyễn Công Trứ là muốn làm cây thông một mình đứng reo giữa ngàn Hống, nhưng thực tế đời ông, cũng như thơ văn ông, lại là tiếng tranh chấp giữa thông reo (tiếng thanh cao của người quân tử, hành đạo) và ngàn hống (tiếng gầm rú của đại ngàn, của bản năng, hành tạc). Âm thanh này lúc trầm lúc bổng, khi to khi nhỏ, nhưng không bao giờ dứt. Như đời và thơ văn Nguyễn Công Trứ với tính cách là một trò chơi, một người chơi còn lại mãi mãi.
12/2014
Đ.L.T
* Bài viết này được tài trợ của quỹ Khoa học Quốc gia Nafosted - ĐLT.
(SH314/04-15)
-------------------
1. Nguyễn Bách Khoa, Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ, Nxb. Hàn Thuyên, H., 1944.
2. Nguyeãn Thanh Nhaõ, Böùc tranh kinh teá Vieät Nam theá kyû XVII vaø XVIII, (Nguyeãn Nghò dòch), Nxb. Tri thức, H., 2013.
3. Xem thêm: 1) Y. Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (1847-1885), (Nguyễn Đình Đầu dịch) Nxb. Tri Thức, H., 2011 và 2) Trần Quang Đức, Ngàn năm áo mũ, Nxb. Thế giới, H., 2013.
THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm. VẠN HẠNH Thiền sư
HỒ THẾ HÀ Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.
LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết: Đào tiên đã bén tay phàm Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?
CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.
PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.
HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.
BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.
NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.
PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...
TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".
MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.
TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H
TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...
BẢO CHI (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...
ĐỖ LAI THÚY Văn là người (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.
ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.