HOÀNG ĐĂNG KHOA
Trước hết cần minh định khái niệm, “trẻ” ở đây là chỉ xét về độ tuổi, cụ thể là dưới 35, theo quy ước mang tính tạm thời tương đối hiện hành của Hội Nhà văn Việt Nam.
Ảnh: internet
Phải nói như vậy để “khuyến cáo” những cái nhìn trịch thượng, những xoa đầu kẻ cả, những ngộ nhận mặc định, rằng trẻ là đồng nghĩa với xanh non, đồng nghĩa với thiếu kinh nghiệm cả về sống lẫn viết, đồng nghĩa với cần phải khiêm tốn tầm sư học đạo…
Văn chương là nghệ thuật, mà nghệ thuật là thăng hoa sáng tạo. Tất nhiên, chẳng có sáng tạo nào thăng hoa từ chân không, mà mọi nội công đều hấp phả dung chứa những dưỡng chất từ văn mạch đông tây kim cổ nói chung, văn mạch dân tộc nói riêng. Tuy nhiên, sáng tạo là kiến tạo cái mới, mà “cái mới thường vượt biên không có giấy thông hành”, nói như “phu chữ” Lê Đạt. Chủ thể viết là “phu chữ”, là lao tâm khổ tứ, là nước mắt mồ hôi, nhưng văn chương đôi khi là “lộc giời”, là bất khả cầu, trượt ra ngoài mọi khung khổ lý luận. Câu chuyện nhà thơ Trần Đăng Khoa viết bài thơ Hạt gạo làng ta khi mới 10 tuổi hay nhà văn Lev Nikolayevich Tolstoy viết tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình khi 37 tuổi và không bao giờ tận mắt thấy thời đại được ông miêu tả trong tác phẩm… là những bằng chứng hùng hồn sinh động để chất vấn lại cái gọi là kinh nghiệm sống và viết. Tất nhiên vẫn biết, rằng tài năng, nói như nhà văn Hồ Anh Thái thì, như hoa của cây vô ưu ashoka, trăm năm mới nở một lần.
Đọc cũng là sống. Sống để sáng tạo. Nhà văn không phải là nhà báo. Nhà báo cần nhập cuộc với cuộc sống, còn nhà văn phải dấn nhập vào cuộc văn. Đành rằng văn chương không thể đóng cửa trước những vang động của đời, nhưng nhà văn nếu cần ăngten đủ thính nhạy thì không nhất thiết phải thực hành những chuyến “thực tế sáng tác” cưỡi ngựa xem hoa hời hợt vô bổ. Minh Moon (sinh năm 1986) viết Hạt hòa bình, Đinh Phương (sinh năm 1989) viết Nhụy khúc, Chuyến tàu nhật thực và Nắng Thổ Tang, Nguyễn Dương Quỳnh (sinh năm 1990) viết Thăm thẳm mùa hè, Nhật Phi (sinh năm 1991) viết Người ngủ thuê, Phạm Bá Diệp (sinh năm 1991) viết Urem người đang mơ, Thành Châu (sinh năm 1991) viết Hỏa Dực, Đức Anh (sinh năm 1993) viết Tường lửa, Thiên thần mù sương và Đảo bạo bệnh, Hoàng Yến (sinh năm 1993) viết Săn mộ - Thông thiên la thành và Thượng Dương, Huỳnh Trọng Khang (sinh năm 1994) viết Mộ phần tuổi trẻ và Những vọng âm nằm ngủ, Đặng Hằng (sinh năm 1995) viết Nhân gian nằm nghiêng, Phạm Giai Quỳnh (sinh năm 1997) viết Trăng trong cõi, Nguyễn Bình (sinh năm 2001) viết Cuộc chiến với hành tinh Fantom, Cao Việt Quỳnh (sinh năm 2008) viết Người Sao Chổi: Cuộc chiến vòng quanh thế giới… thì trước đó họ biết đi “thực tế sáng tác” ở đâu, khi mà cái gọi là “hiện thực” trong các truyện dài/ tiểu thuyết của họ đều hoặc là “hiện thực ngoài hiện thực” hoặc là hiện thực ở thì tương lai, hoặc là “hiện thực” thuộc về thời đại đã lùi xa - thời đại mà họ chưa được sinh ra?
Nhiều người kêu là một bộ phận người viết trẻ như vừa kể vì không có khả năng trực chiến áp sát đời sống tươi ròng đang diễn ra nên mới phải tự lấp đầy cái viết bằng các thể tài lịch sử, trinh thám, kỳ ảo/ fantasy, khoa học giả tưởng/ science-fiction, hoặc bằng cách liên văn bản đến những tác phẩm văn học kinh điển trong vốn đọc của mình. Nhận định này xem ra chưa đúng và trúng.
Lịch sử văn chương thế giới đã chứng kiến trường hợp nhà văn Orhan Pamuk. Trong khi ở đất nước Thổ Nhĩ Kỳ người ta thường viết các tiểu thuyết hiện thực về các vấn đề xã hội thì nhà văn này được cho là người tạo một tiền lệ khác khi trình xuất Tên tôi là Đỏ - cuốn tiểu thuyết lịch sử nhưng lại có mạch tự truyện và mang hình thức của một tiểu thuyết trinh thám. Để có được phông lịch sử, ông đã say mê chuẩn bị, xử lý đề tài, khảo cứu ròng rã tám năm, rồi hứng khởi huy động những câu chuyện thực của bản thân và gia đình kết hợp cùng trí tưởng tượng bay bổng lãng mạn để bắt tay viết tác phẩm trong vòng hai năm. Năm 2003, ông nhận giải International IMPAC Dublin cho cuốn tiểu thuyết này. Và năm 2006, giải Nobel văn học xướng tên ông. Còn nhà văn Ý Umberto Eco - tác giả của tiểu thuyết trinh thám Tên của đóa hồng nổi tiếng - từng phát biểu, rằng dưới nhãn quan của ông thì hoàn toàn không có sự khác biệt động trời giữa một tác phẩm tiểu thuyết trinh thám với một luận văn triết học hay khoa học, vì đều bao hàm cả quá trình tìm tòi, dẫn giải; và rằng tiểu thuyết trinh thám, bằng cách nào đó, giống như một tấm gương, phản ánh quan hệ của chúng ta với thế giới. Một trường hợp khác là nhà văn Olga Tokarczuk. Năm 2018, giải Nobel văn chương vinh danh nữ sĩ người Ba Lan này vì “Trí tưởng tượng trong trần thuật và sự đam mê ắp đầy bách khoa kiến thức. Trí tưởng tượng này đang chứng tỏ, vượt qua mọi ranh giới là một dạng thức của cuộc sống”…
Có nghĩa là, không thể nói rằng giữa tiểu thuyết hiện thực và tiểu thuyết lịch sử hay tiểu thuyết trinh thám hay tiểu thuyết kỳ ảo hay tiểu thuyết giả tưởng thì thể loại nào “dễ ăn” hơn thể loại nào, vì thể loại nào cũng đòi hỏi sự trường sức trường vốn nơi người viết. Cũng vậy, không thể nói rằng giữa vốn sống thực tế với vốn sống sách vở (“bách khoa kiến thức”) hay vốn sống tưởng tượng thì vốn sống nào “có giá” hơn vốn sống nào, vì vốn sống nào cũng là tài sản lớn của nhà văn, không dễ mà họ sở hữu được. Mỗi chủ thể viết sẽ tận dụng và phát huy tối đa cái lưng vốn mà mình đầy nhất, từ đó lựa chọn cách thế văn chương mà mình thuận tay nhất, có thể đem tới cho mình mức độ tự do ngôn ngữ và tự do tưởng tượng cao nhất.
Khi mà người đọc ngày nay đã quá bội thực với “hiện thực cuộc sống” được cập nhật từng khắc bởi truyền thông đa phương tiện, đặc biệt là mạng xã hội, thì người ta tìm đọc tác phẩm văn chương không nhất thiết để “nhận thức” thực tại, mà nhiều khi chỉ là phiêu lưu thám mã vào một thế giới bên ngoài thế giới hoặc một thế giới ẩn mật đầy kịch tính - để mơ tưởng, để giải trí, để tìm quên; hoặc dò vục vào lịch sử - để truy vấn, để nhắc nhớ, để dự phóng; và trên tất cả là để làm đầy lên khoái cảm thẩm mỹ nơi mình. Đón hứng nhu cầu đọc của một bộ phận người đọc này, một thế hệ nhà văn trẻ, mỗi người một vẻ, đang hăm hở dấn nhập vào cuộc văn mới. Họ từ chối lối văn thật thà kể tả hiện thực đơn nghĩa đơn giản, để tìm tòi thể nghiệm sáng tạo nên những tác phẩm phức hợp đa tầng. Mà một khi họ chọn đường đi khó là viết về lịch sử chẳng hạn, thì đó cũng là cách họ nêu cao chủ nghĩa dân tộc và đề cao bản sắc dân tộc. Và suy cho cùng, chẳng có cái viết nào của họ lại vô can với thời tiết chính trị văn hóa xã hội của thời đại mà họ đang thuộc về.
![]() |
Mỗi người viết trẻ hôm nay là một “người chữ”, nên đều trình hiện mình đầy bản lĩnh tự tin với phông nền văn hóa văn chương triết mỹ vững chắc. Họ “hát khác xưa rồi, khóc cũng khác xưa”. Họ xa lạ với kiểu viết bản năng, ăn may, “tự ăn mình”, “chuyện đời tự kể”. Họ xác tín định nghĩa, rằng phàm những tác phẩm lấy tự thân mình làm mục đích, chứ không làm công cụ, thì đó là văn học, rằng phàm cái gì không mang tính chức năng sứ mệnh, chỉ cốt thỏa mãn nhu cầu văn hóa thẩm mỹ, thì đó là văn học. Họ ý thức cao độ, rằng muốn đi đường xa đường dài với văn chương, muốn đi kịp tốc độ tiến hóa của văn chương, thì không có cách nào khác là phải không ngừng cập nhật tích nạp tinh hoa tri thức và tinh túy văn học của nhân loại. Họ nỗ lực đột xuất mình lên để không chỉ thêm vào bức tranh văn học một sắc gam mới, mà còn là một sức sống mới.
Với trữ lượng chữ vạm vỡ của mình, thế hệ người viết trẻ mới thường khi là những tay bút “đa năng”, “nhiều trong một”. Chẳng hạn, Văn Thành Lê (sinh năm 1986): nhà văn - nhà phê bình; Đào Lê Na (sinh năm 1986): nhà phê bình - nhà văn; Nguyễn Thị Thúy Hạnh (sinh năm 1987): nhà thơ - dịch giả - nhà phê bình; Hà Hương Sơn (sinh năm 1987): nhà thơ - nhà văn; Lữ Mai (sinh năm 1988): nhà thơ - nhà văn; Nguyễn Thị Kim Nhung (sinh năm 1990): nhà thơ - nhà văn; Nguyễn Thị Thùy Linh (sinh năm 1991): nhà thơ - dịch giả - nhà văn; Meggie Phạm/ Phạm Phú Uyên Châu (sinh năm 1991): nhà văn - nhà phê bình; Hiền Trang (sinh năm 1993): nhà văn - nhà phê bình - dịch giả; Phan Đức Lộc (sinh năm 1995): nhà văn - nhà thơ; Phạm Thu Hà (sinh năm 1996): nhà văn - dịch giả; Nguyễn Đình Minh Khuê (sinh năm 1996): nhà phê bình - nhà văn; Lê Quang Trạng (sinh năm 1996): nhà văn - nhà thơ; Vĩnh Thông (sinh năm 1996): nhà văn - nhà thơ; Hương Giang (sinh năm 1997): nhà thơ - nhà phê bình…
Những người viết trẻ họ ở đâu trên bản đồ văn chương của Hội Nhà văn Trung ương? Câu trả lời là họ vắng mặt, từ danh sách hội viên (trừ một vài cái tên như Văn Thành Lê, Lữ Mai, Đinh Phương, Meggie Phạm, Lê Vũ Trường Giang), đến danh sách giải thưởng 5 năm hay giải thưởng hằng năm, đến danh sách khách mời các kỳ cuộc tọa đàm hội nghị hội thảo (trừ hội nghị viết văn trẻ toàn quốc nếu diễn ra vào khung thời điểm mà họ đang còn “trẻ”).
Phải vậy chăng mà chương trình hành động của Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa X (nhiệm kỳ 2020 - 2025) đã ráo riết vạch ra “những việc cần làm ngay” hướng đến lực lượng người viết trẻ, đó là: khôi phục tờ báo Văn nghệ Trẻ với phiên bản mới mang tên Nhà văn Trẻ và giao cho người trẻ làm; mời người trẻ giỏi vào Hội; thành lập Giải thưởng Tác giả Trẻ… Tân Chủ tịch Nguyễn Quang Thiều sốt sắng: “Hội Nhà văn bạt ngàn lau trắng, chúng tôi muốn có thêm người trẻ”.
Vâng, nói đến người trẻ là nói đến mới mẻ khỏe khoắn trẻ trung, nhiệt hứng năng động sáng tạo. Họ phong phú nhiều màu lắm vẻ. Thứ đáng giá nhất ở họ là sức trẻ, là lập trường cái mới cái khác, là tín hiệu chuyển dịch của ý thức tư duy văn chương thời đại, là sự “dấn thân một cách đầy đủ cá tính, tận lực mà không hỗn loạn” (Irot Armstrong Richards). Trên mục “Tiếng nói nhà văn”, báo Văn nghệ ra ngày 27/3/2021, nhà thơ Hoàng Vũ Thuật (sinh năm 1945, thế hệ “lau trắng”) cất lời như sau: “Những người cầm bút trẻ có thể tôn vinh chúng ta, cũng có thể chôn vùi chúng ta như một xác chết, nếu chúng ta không xứng đáng để họ học hỏi”.
Người viết trẻ hôm nay như bầy chim bạc rời nơi ẩn trú/ sải niềm tin về phía mặt người (thơ Nhung Nhung, sinh năm 1991), như lũ bồ câu cánh trắng/ vãi từng chùm tự do lên cao (thơ Hoàng Thúy, sinh năm 1992). Những bài xích can gián kháng cự khước từ không ngăn được đôi cánh của họ. Vậy nên, đừng là trở lực, mà nếu có thể thì trợ lực, để họ được thông thoáng vươn sải những đường bay.
H.Đ.K
(TCSH43SDB/12-2021)
Văn hóa dân gian đã có nhiều biến đổi, nhưng các thành tố của nó vẫn tồn tại và tái cấu trúc, tạo nên bộ mặt văn hóa của xã hội đương đại. Văn hóa ấy là tấm căn cước cho mỗi người Việt khi hội nhập thế giới, đồng thời mang lại giá trị tinh thần và cả cơ hội khởi nghiệp cho giới trẻ.
Sau hơn 20 năm xuất hiện tại Việt Nam, internet ngày càng đi sâu vào cuộc sống, tạo ra những thay đổi to lớn từ thói quen hàng ngày, tới cách làm việc, giao tiếp, tương tác xã hội, quan niệm về không gian, thời gian... Những thay đổi ấy đòi hỏi xây dựng các giá trị văn hóa mới - văn hóa mạng.
LÊ HOÀNG TÙNG
Vai trò của thể dục, thể thao đã được xã hội thừa nhận, đánh giá là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến sự phát triển của mỗi cá nhân và đất nước.
Tác phẩm sơn mài “Vườn xuân Trung Nam Bắc” của danh họa Nguyễn Gia Trí - một bảo vật quốc gia đã bị hư hại nặng nề sau quá trình làm vệ sinh của Bảo tàng Mỹ thuật TP Hồ Chí Minh đang gióng lên hồi chuông cảnh báo về công tác bảo quản, tu bổ, phục chế.
Di tích xuống cấp là một trong những vấn đề tồn tại song hành với công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản ở Hà Nội. Bên cạnh những khó khăn về nguồn kinh phí, tình trạng tùy tiện trong tu bổ, tôn tạo cũng đang là bài toán đòi hỏi có giải pháp khắc phục hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững giá trị di sản.
Tính đến đầu năm 2019, qua 7 đợt công nhận theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Việt Nam đang sở hữu 164 hiện vật, nhóm hiện vật được tôn vinh là bảo vật quốc gia. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, vấn đề ứng xử với các bảo vật quốc gia đang tồn tại nhiều số bất cập, nhất là tình trạng can thiệp thô bạo với không ít hiện vật khiến dư luận bất bình.
Dự án “Tương lai của truyền thống” vừa tổ chức buổi trò chuyện “Cảm hứng nghệ thuật Tuồng”. Với sự tham gia của NSND Mẫn Thị Thu, NSƯT Phạm Quốc Chí, NSƯT Nguyễn Ngọc Khánh, Nghệ sĩ Nguyễn Thành Nam một lần nữa những bất cập trong công tác bảo tồn và phát triển nghệ thuật Tuồng đã được chính người trong cuộc chia sẻ.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Gọi là “Chuyện bên lề” vì chủ trương xây Khu Lưu niệm nhà thơ Tố Hữu (KLNTH) là của UBND Tỉnh Thừa Thiên Huế, tôi “bỗng dưng” bị lôi vào cuộc do đã viết bài “Ngày Xuân thăm quê nhà thơ Tố Hữu” đăng trên báo Văn nghệ số Tết Mậu Tuất - 2018.
Phát biểu tại hội nghị kiểm tra, đánh giá việc triển khai, thực hiện Nghị quyết 33 về xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước tại địa bàn TP.HCM ngày 20/4/2019, ông Võ Văn Thưởng - Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương nhận định: “Văn hóa TPHCM đã phát triển nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng”.
Để hạn chế bạo lực học đường, có ý kiến cho rằng, bên cạnh kiểm soát, ngăn chặn những clip độc hại, bạo lực trên mạng xã hội, cần đưa giá trị sống và kỹ năng sống đến học sinh và giáo viên, qua đó tạo môi trường giáo dục thân thiện hơn, khiến học sinh hạnh phúc hơn.
5 năm kể từ khi Ngày Sách Việt Nam ra đời, khắp các địa phương trên cả nước, hoạt động cổ vũ cho văn hóa đọc được tổ chức rộng rãi. Tại các hệ thống giáo dục đào tạo, phong trào đọc sách cũng lan tỏa mạnh mẽ.
Thần tượng là một nhu cầu thiết yếu của thế hệ trẻ, nó cần thiết như cơm ăn nước uống hàng ngày. Có phải chăng xã hội chúng ta đang thiếu vắng những anh hùng, những con người bình thường, những sự việc bình thường đã trở nên quý hiếm, được nêu gương khiến thế hệ trẻ tìm đến những kẻ giang hồ cộm cán, những kẻ tìm mọi cách để gây sốc trong đời sống và trên mạng xã hội?
Tại Hội thảo khoa học quốc tế với chủ đề: Xây dựng trường mầm non hạnh phúc và nói không với bạo lực học đường, diễn ra sáng 9.4, chuyên gia giáo dục Đan Mạch, PGS. Jette Eriksen khẳng định, để đẩy lùi bạo lực học đường, chúng ta phải xây dựng một nền giáo dục với những phương pháp sư phạm đầy nhân văn và thân thiện với trẻ, kết hợp quan điểm của trẻ em trong tất cả những gì chúng ta làm.
Thông qua cuộc thi “Đại sứ văn hóa đọc”, các em đã có những cảm nhận hết sức tuyệt vời về vai trò của đọc sách, của văn hóa đọc.
NGUYỄN THANH TÙNG
Trong số ra ngày 25 tháng 11 năm 1990, một tờ báo chủ nhật xuất bản ở Hà Nội đăng bài "Giáo dục gia đình - S.O.S" của bạn đọc Lê Hòe.
Chúng ta đã nói quá nhiều về sự xuống cấp đạo đức cá nhân và xã hội mà chưa chỉ ra được căn nguyên sâu xa của nó là gì, nằm ở đâu và phải làm gì, tháo gỡ như thế nào… Sức mạnh đến từ nhiều thiết chế xã hội, trong đó có báo chí với vị thế và tầm ảnh hưởng rộng lớn.
Chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn học - nghệ thuật trong đó có nghệ thuật sân khấu đã được triển khai thực hiện hơn 20 năm nay… Tuy nhiên, theo họa sĩ - NSND Lê Huy Quang, quá trình này với sân khấu vẫn đang như một vòng tròn quẩn quanh chưa xác định được hướng đi cụ thể.
Đi dạo trên nhiều tuyến phố của Hà Nội bắt gặp nhiều biển hiệu đề bằng tiếng nước ngoài. Ngay cả khi chúng ta đón lượng khách du lịch kỷ lục là 15 triệu lượt/người trong năm 2018 thì điều này không chỉ chứng tỏ chủ các cửa hàng, công ty thiếu tự tôn văn hóa dân tộc mà còn vi phạm quy định pháp luật.
Xã hội phát triển, các khu đô thị mọc lên ngày một nhiều. Dạng nhà chung cư cao tầng, nhà ống, nhà liền kề, biệt thự phát triển mạnh mẽ dẫn đến sự thay đổi lớn về sinh hoạt của người Việt. Từ đó dẫn đến thay đổi đáng kể về vị trí, vai trò và chức năng của Ban (bàn) thờ gia tiên…
Câu hỏi khá táo bạo, tương tự như khi người ta tính chuyện bứng một gốc cây cổ thụ ngàn năm, rễ của nó đã lan rộng cả dải đất hình chữ S, tán của nó xòe cả bầu trời vùng biển đông, toan ngắt cành ngắt lá đem trồng đi chỗ khác, hoặc chừng như muốn xem bói một quẻ nhờ vào lời thần thánh hoặc tìm nhà bác học phán cho một câu điều chỉnh. Tôi thì tôi không dám nói chuyện điều chỉnh – hai chữ rất thời thượng của thời… hậu cách mạng bứng gốc, nay bớt lại chỉ điều chỉnh thôi nhưng điều chỉnh cái gì, ai điều chỉnh?