Bên cạnh dòng văn học thị trường ăn khách, không ít tác giả trẻ thế hệ 9X đang chọn dấn thân vào mảng đề tài vừa nghe đã khiến người đọc ngần ngại: chiến tranh!
Tác phẩm viết về đề tài chiến tranh không chỉ khó cho người viết trẻ mà còn chưa thu hút độc giả cùng trang lứa. Ảnh: DŨNG PHƯƠNG
Nối tiếp
Lực lượng nhà văn, nhà thơ lấy chiến tranh làm đề tài được các nhà nghiên cứu tạm chia thành 3 lớp: Một là, những tác giả trực tiếp tham gia chiến tranh, xem việc viết như một sứ mệnh, như: Giang Nam, Nguyễn Huy Tưởng, Anh Đức, Phạm Sỹ Sáu...; hai là, các nhà văn thời hậu chiến từ năm 1975 - 2000, với những cái tên tiêu biểu như Nguyễn Minh Châu, Chu Lai, Bảo Ninh, Phong Điệp…; ba là, các nhà văn từ năm 2000 đến nay.
Lứa thứ ba này cũng được tạm tách thành 2 nhóm: Một nhóm gồm những cái tên thuộc thế hệ 7X, đã ghi dấu ấn và là lực lượng sung sức nhất của văn học đương đại như Nguyễn Bình Phương, Uông Triều, Nguyễn Đình Tú, Đỗ Tiến Thụy…; nhóm còn lại là nhóm tác giả 8X, 9X với đầy dấu ấn công nghệ và mạng xã hội như Đinh Phương, Nguyễn Thị Kim Hòa, Võ Thu Hương, Huỳnh Trọng Khang…
Nếu như thế hệ đầu xem việc viết là để “giữ lại tất cả những ký ức, những trải nghiệm trong cuộc chiến” thì các thế hệ sau, nhờ độ lùi của thời gian, họ xem chiến tranh như một cái cớ để viết, để “đào sâu”. Thế hệ sau viết với tâm thế đứng ngoài cuộc chiến, từ đó có cái nhìn bao quát, toàn diện hơn để viết, để lột tả chiến tranh. Nếu lớp nhà văn thứ hai và lứa đầu thứ ba đi vào khai thác đề tài hậu chiến, những vết thương tinh thần, di chứng do chiến tranh để lại thì lứa 8X, 9X mạnh dạn lấy chiến tranh làm tấm gương, phản chiếu hiện thực và tương lai.
“Tôi quan tâm tới đề tài chiến tranh nhưng đủ tỉnh táo để không viết trực diện như cách các nhà văn tiền bối đã làm. Điều đó là dại dột và liều lĩnh. Trong hầu hết các tác phẩm, tôi chỉ xem chiến tranh là một thành tố cấu thành tác phẩm, là mảnh ghép của bức tranh toàn cảnh, phản ánh nó dưới dạng tác động của quá khứ đối với hiện tại và tương lai. Tôi luôn nhắc mình phải viết khác đi. Khác ngay với chính tôi ở những tác phẩm trước đó”, nhà văn Đỗ Tiến Thụy, tác giả của Con chim Joong bay từ A đến Z, bày tỏ.
Có thể thấy, nổi bật lên trong sáng tác của các nhà văn trẻ là cảm thức hoài nghi, thậm chí phê phán chiến tranh. Đó là tâm trạng của những người chứng kiến bi kịch dai dẳng thời hậu chiến. Họ tự do hơn trong cách biểu đạt suy nghĩ, cảm nhận, góc nhìn của họ về cuộc chiến.
“Chiến tranh chỉ là nguyên cớ cho những câu chuyện khác. Ngày cả khi thể hiện chiến tranh, lớp men sử thi cũng đã được gột đi, trả hiện tượng về đời sống thế tục. Rất hiếm hoi có những khẩu hiệu, những lời tuyên thệ, ý chí sắt máu trong: Đợi đến lượt (Đinh Phương), Mộ phần tuổi trẻ (Huỳnh Trọng Khang), hay trong hy vọng mong manh, diệu kỳ gợi lên từ một bông súng đỏ: Ngụ ngôn tháng tư, Trần Thị Tú Ngọc”, nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Tâm nhận định.
Mạch ngầm không dứt
Cũng theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Tâm, 2 thách thức mà nhà văn trẻ phải đối mặt khi chọn đề tài chiến tranh là: thoát khỏi ám ảnh của những tác phẩm đã đóng đinh vào lịch sử văn học thời chiến, kiến tạo bản sắc của thế hệ. Và rõ ràng, xét trên phương diện này, vẫn chưa có bứt phá nào ngoạn mục. Các tác phẩm vừa liệt kê của những tác giả trẻ chỉ tạo thành dòng chảy âm thầm, chưa đủ mạnh mẽ lôi cuốn sự chú ý của đông đảo người đọc. Sự rầm rộ của Mộ phần tuổi trẻ của cây bút sinh năm 1994, đáng tiếc thay lại tập trung vào những chi tiết chưa khớp với lịch sử.
Lý do chọn đề tài vừa khó vừa thách thức, nói như Huỳnh Trọng Khang, đơn giản là “không chạy theo số đông”. Nhưng sâu xa hơn, là tâm thức của những người ở thế hệ hiện đại, muốn giải đáp những thắc mắc về lịch sử, về gia đình, về thân phận con người bằng góc nhìn của riêng mình. “Chiến tranh vẫn là vùng hiện thực hấp dẫn các cây bút”, nhà văn Sương Nguyệt Minh khẳng định.
“Đề tài chiến tranh trong văn học không bao giờ là cổ hủ khi con người hàng ngày vẫn phải đương đầu với thật giả lẫn lộn, khi hành tinh này vẫn đầy bất trắc…”, nhà văn Chu Lai chia sẻ. Viết về chiến tranh cần sự chiêm nghiệm, độ lắng cần thiết. Đó là lý do hầu hết các cây bút được đánh giá là trẻ đều đã bước qua tuổi 30.
Ở góc độ của người tiếp cận, chính tác phẩm của những cây bút trẻ xông xáo này sẽ đến gần hơn với độc giả, cũng là những người trẻ tuổi, bởi góc nhìn, suy nghĩ của họ dễ tạo được sự đồng cảm. Nhà văn Chu Lai bày tỏ niềm tin: “Độc giả sẽ không bao giờ quay lưng với mảng đề tài này, bởi nó là giọt dung dịch mạnh nhỏ xuống chiến hào. Cái tốt cái xấu, cái thiện cái ác, cao thượng - thấp hèn…, tất cả sẽ hiện lên hết màu, hết nét. Vấn đề là anh khai thác nó như thế nào để không sáo mòn, cũ kỹ”.
Theo Lê Phan - SGGP
Giải thưởng văn học Sông Mekong lần thứ 11 sẽ diễn ra tại thủ đô Phnompenh, Campuchia vào cuối năm 2020. Hai tác giả Việt Nam đoạt Giải thưởng năm nay là tác giả Trần Nhuận Minh với tác phẩm sách thơ Qua sóng Trường Giang và tác giả Trần Ngọc Phú với tác phẩm Từ Biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp.
Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4-10-1920 - 4-10-2020), NXB Hội Nhà văn cho ra mắt bạn đọc tập sách dày dặn, công phu và nghĩa tình Tố Hữu - Một đường thơ, một đường đời.
Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng, người cuối cùng của phong trào Thơ mới vừa từ giã bạn đọc ở tuổi 100 – thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh - là người “không để thơ… ngủ quên trên thành công của dòng lãng mạn trước đó”.
Đoàn Ngọc Thu nói rằng chị thích thơ của mình ngày xưa hơn. Những xúc cảm ấy vẫn như còn váng vất trong những vần thơ trong tập “Sau bão” (NXB Hội Nhà văn, 2020).
Ra đời cách đây 25 năm, bộ truyện “Kính Vạn Hoa” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có ý nghĩa đặc biệt, khơi luồng gió mới cho văn học thiếu nhi Việt Nam thời kỳ đổi mới, mang đến món ăn tinh thần lý thú bổ ích. Tuy nhiên, quá trình thực hiện bộ sách cũng thử thách những người chọn lựa bước trên con đường dài sáng tạo không ngừng nghỉ.
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh năm 1920 tại Ðà Lạt, nguyên quán Quảng Bình, lúc nhỏ theo học ở Trường Quốc học Quy Nhơn (cũ), sau đó chuyển ra Hà Nội.
Sáng 22/11/2020, Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã thông báo chia sẻ tin buồn cho các nhà thơ và những người yêu thơ đó là nhà thơ tiền bối nổi tiếng Nguyễn Xuân Sanh vừa qua đời.
NXB Văn học giới thiệu “Nghề vương bụi phấn”, tác phẩm thứ ba của tác giả Nguyễn Huy Du, gồm những câu chuyện về tình thầy trò với văn phong mộc mạc, giản dị nhưng lôi cuốn, nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11.
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh ngày 16 tháng 11 năm 1920, quê gốc thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông cũng là một trong những hội viên tiền phong tham gia xây dựng Hội Nhà văn Việt Nam. Năm nay ông tròn 100 tuổi. Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức chúc thọ nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh tại trụ sở số 9, Nguyễn Đình Chiểu hôm 9/11/2020 với sự tham gia của lãnh đạo Hội, các nhà văn nhà thơ và đại diện gia đình của ông.
“Nẻo vào văn xuôi đương đại Việt Nam” là tập tiểu luận - phê bình của TS Bùi Như Hải, do NXB Văn học ấn hành tháng 9-2020.
Sáng 5-11, Viện Văn học Việt Nam đã tổ chức toạ đàm nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh PGS – nhà nghiên cứu văn học Vũ Đức Phúc. Đây là một dịp để các thế hệ Viện Văn học ngồi lại cùng ôn cố và “soi chiếu cho tương lai” – như lời PGS,TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học nhận định.
Bằng sự lao động miệt mài và nghiêm túc, nhà văn Lê Văn Nghĩa thường gửi đến độc giả những đầu sách độc đáo, nhiều cuốn trong số đó có giá trị như một “bảo tàng ký ức” của không chỉ riêng tác giả.
Thạch Lam (1910 - 1942) là đại biểu xuất sắc của văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 - 1945. Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời (Nguyễn Tuân).
Sáng ngày 20/10/2020, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức kỉ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4/10/1920 – 4/10/2020).
Đã có nhiều nhà văn viết về Hà Nội - Thủ đô yêu dấu - như Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyễn Khải… Nhưng tập truyện ký “Hà Nội và tôi” (NXB Hội Nhà văn) gần 300 trang với hơn 20 tác phẩm của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, một người Hà Nội gốc, đã cho ta biết thêm một phần chân dung về những con người của đất Tràng An thanh lịch.
Tháng 10, nhân kỷ niệm 66 năm ngày Giải phóng Thủ đô, Nhã Nam giới thiệu tới bạn đọc một tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Trương Quý, cây viết vốn quen thuộc với những tản văn về các góc nhỏ của Hà Nội: “”Hà Nội bảo thế là thường”.
Rất lâu rồi, không có luận văn, luận án nào về thơ Tố Hữu. Cũng lâu lắm rồi, sau Hà Minh Đức, Trần Đình Sử… rất ít người viết về thơ ông. Tôi cũng chưa bao giờ viết về thơ Tố Hữu khi ông còn sống. Nhưng với chúng tôi, thơ Tố Hữu là nguồn suối tươi mát, mạch ngầm sống động trong đời sống tinh thần. "Chúng tôi" ở đây là thế hệ những người ở lứa tuổi 70. Trong quãng thời gian 70 năm của một đời người thì ít nhất có 30 năm (1954 - 1975) chúng tôi đã được sống với thơ Tố Hữu.
Bằng kiến thức của một chuyên gia đầu ngành và sự trân trọng quá khứ một đi không trở lại, ông đã chỉ ra giá trị của cuốn sách và ý nghĩa của việc làm sống lại những kí ức Hà Nội rất đặc biệt thông qua cuốn sách này...
Có một bộ phim tôi không thực nhớ nội dung, một bộ phim của Woody Allen mang tên "Đóa hồng tím ở Cairo", câu chuyện mang máng mà tôi còn nhớ, đó là một người phụ nữ thất bại trong tất cả mọi khía cạnh cuộc đời, rồi cô vào một rạp chiếu bóng, xem một bộ phim, và trong giây phút ấy, cô quên béng mất cuộc đời mình, cô òa khóc, không phải vì mình, mà vì những nhân vật trong phim.
Năm 1941, với việc xuất bản Dế mèn phiêu lưu ký ở tuổi 20 (bản in đầu tiên có nhan đề Con dế mèn), Tô Hoài có được hai vinh dự lớn trong nghề cầm bút: Trở thành người mở đầu thể loại truyện đồng thoại; Tác phẩm mở đầu lại là đỉnh cao của thể loại, đồng thời là một trong những áng văn học thiếu nhi nổi tiếng thế giới nhất của Việt Nam.