Robert Arthur, Jr. sinh năm 1909, tại Philippines, nơi cha của ông, sĩ quan quân lực Hoa Kỳ, đóng quân. Tuổi thơ của ông cũng theo chân cha nay đây mai đó, có điều là ông không nối nghiệp cha (dù đã được nhận vào trường West Point), mà chọn học ngành văn chương.
Ảnh: wiki
Tốt nghiệp năm 1930, ông đi làm biên tập viên cho các báo, rồi trở về học tiếp để hoàn tất bằng M.A. ngành báo chí. Ông chuyển đến sống tại New York City và bắt đầu viết truyện ngắn, hầu hết đăng ở các tạp chí giật gân, chuyên khai thác chuyện ly kỳ, bí mật, trinh thám, đại loại như Wonder Stories, Detective Fiction Weekly, Mystery, The Illustrated Detective Magazine... Ông lại tiếp tục học đại học, lần này chuyên ngành viết truyện truyền thanh, và sáng tác cho chương trình Mystery Time của đài phát thanh. Đến năm 1959, ông chuyển đến Hollywood và viết kịch bản truyền hình. Ông cộng tác với các chương trình Alfred Hitchcock’s TV show và Alfred Hitchcock Presents của nhà đạo diễn lừng danh với thể loại phim kinh dị. Ngoài ra, ông còn viết loạt truyện trinh thám dưới tên chung là The Three Investigators, xuất bản liên tục được 10 cuốn, rất nổi tiếng.
Truyện ngắn giới thiệu dưới đây nguyên là kịch bản truyền hình trong chương trình Alfred Hitchcock Presents. Sau này, truyện được Alfred Hitchcock in, cùng với truyện của các tác giả khác, trong cuốn “Stories They Wouldn’t Let Me Do On TV”.
Thân Trọng Sơn dịch và giới thiệu
ROBERT ARTHUR, JR.
(Nhà văn Hoa Kỳ, 1909 - 1969)
Ý tưởng do nơi Bradley. Cả buổi tối buồn thiu, đám phóng viên phụ trách chuyên mục hình sự của các nhật báo đang tụ họp lại trong gian phòng nhỏ bẩn thỉu của trụ sở cảnh sát; Bradley, của tờ Tin nhanh, tỏ ra chán trò đánh bài tay ba, và cứ ngóng xem có chuyện gì xảy ra không.
“Tôi có ý này, anh vừa ném mấy quân bài vừa nói, ta sẽ chơi già Pop một vố.”
Pop Henderson là nhân viên trực đêm của nhà xác, dưới hầm tòa nhà này. Lão đã qua ngưỡng bảy mươi, hoạt động chậm chạp, trí óc còn chậm chạp hơn. Cơ quan thành phố muốn cho lão nghỉ hưu mấy năm nay rồi, nhưng do lão còn nặng gánh gia đình, có chuyện bà vợ đau ốm nữa, và nghỉ hưu rồi cũng chẳng làm gì hơn được. Vả lại, công việc của lão cũng không nặng nhọc gì cho nên cấp trên lơ đi chuyện tuổi tác mà để lão cứ tiếp tục.
“Chơi kiểu gì đây?”, Furness, chàng trai cao gầy, phụ trách mục tội phạm của tờ Kỷ lục, lên tiếng hỏi, Bradley giải thích và Furness lắc đầu:
“Tôi không thích chuyện đó, già Pop không còn lanh lợi nữa, để yên cho lão đi!”
Nhưng can ngăn Bradley không phải là chuyện dễ. Anh là người mà đùa dai đã thành cố tật, nổi tiếng với những trò đùa độc đáo. Với anh ta, điều quan trọng là trò đùa, đối tượng là ai chẳng cần biết.
Anh cứ khẩn khoản, rốt cuộc thì Furness cũng nhượng bộ vì không thích tranh luận. Morgan, thuộc tờ Sự kiện, có uống một hai ly rồi, tỏ ra dễ dãi thôi. Cả ba cùng nhau đi xuống tận căn phòng âm u, nơi già Pop Henderden, ngồi ở cái bàn nhỏ xíu, chờ hết giờ làm việc. Lão không bao giờ đọc sách báo gì vì mắt cận thị nặng. Lão cũng chẳng nghe đài. Lão đang ngồi đấy, chờ đến hết giờ.
Dọc theo một trong những bức tường gian phòng chính là hai mươi ngăn nhỏ, khoảng bốn lăm trên sáu mươi centimet, vừa đủ rộng để nhét vào một người lớn to xác, miễn là anh ta đừng có cao hứng xoay người. Mà thực ra không ai nằm trong đó lại có ý nghĩ như thế. Những ngăn này đều được làm lạnh, giữ ở nhiệt độ dưới 0 độ, và bởi vì đây là thành phố lớn luôn có cả một đội ngũ những nạn nhân tai nạn và những thi thể chưa được nhận dạng nên hầu hết các ngăn thường có người chiếm chỗ.
“Ông Pop, Bradley nói, chúng tôi muốn kiểm tra số 11. Chúng tôi mới có nguồn tin rằng có thể đây là ông chủ nhà băng ở Nữu Ước bị mất tích.”
“Số 11 à?”
Pop chậm rãi đứng dậy, đưa mấy người này đi theo dãy các ngăn hộc, lão đẩy cái then cửa nơi có ghi số 11 và kéo cái khay có thanh trượt ra. Nằm trên đó là một hình hài phủ tấm drap. Bradley lật tấm drap ra và làm bộ xem kỹ khuôn mặt.
“Trông giống ông ta lắm, Bradley gật đầu nói. Đúng thế, phù hợp với mô tả. Ông vui lòng đi lấy phiếu của người này đi.”
“Vâng ạ, ông Bradley.”
Người gác đêm quay trở lại và đi ra xa với bước đi nặng nhọc. Bradley nheo mắt về phía Furness đang đi theo ông Hendersen về văn phòng. Khi lão đã đi khuất tầm nhìn, Bradley và Morgan, lúc này vẫn còn say, bắt đầu chuẩn bị trò đùa.
Furness, muốn cầm chân già Pop tại văn phòng, giả bộ chăm chú nghiên cứu phiếu chuyển vào của số 11, cho đến lúc Morgan đi tới.
“Thôi ông khỏi mất công tìm, ông Pop, anh ta cố nén cười và nói. Tôi nghĩ là chúng tôi đã lầm. Ông có thể cho số 11 vào chỗ cũ. Nào, Furness, ta đi lên thôi, và chơi thêm vài ván.”
Hai chàng nhà báo rút lui, và đi đến cuối hành lang thì đứng đợi. Pop cẩn thận, kiên nhẫn, sắp xếp lại mớ giấy tờ trong bộ hồ sơ. Sau đó, cũng với động tác chậm rãi, không vội vã gì, như người luôn cứ chờ đợi - điều lão quen làm do công việc - lão lê gót trở lại phòng nhà xác, tiến tới ngăn để mở, cái khay đã kéo ra, và hình hài phủ tấm drap.
Lão chỉ còn cách bốn mét thì cái drap động đậy. Một tiếng làu nhàu như diễn kịch phát ra, rồi cái hình nhân phủ drap đó ngồi dậy từ từ, tấm vải trắng rớt xuống từ khuôn mặt mà vùng tranh tối tranh sáng và cặp mắt cận thị của ông già không thể nhận ra là mặt của Bradley.
“Tôi ở đâu thế này? Chàng phóng viên hỏi, giọng khàn khàn. Các người đã làm gì tôi thế?”
Pop Hendersen ngập ngừng dừng lại, Bradley giơ cánh tay bọc xoắn trong chiếc drap và chìa về phía ông già vẻ đe doạ.
“Ông! Anh nói giọng ê a, ông đã làm gì tôi? Ông định giết tôi!...”.
Trò đùa rất là thô thiển, giống như những trò khác của Bradley. Nhưng anh ta chỉ nhằm gây cảm giác đối với một ông già đầu óc đã kém minh mẫn do tuổi tác. Theo anh ta thì hiệu quả hoàn toàn như ý. Trong một lát, Pop Hendersen đứng yên tại chỗ, sửng sốt, nghẹt thở. Sau đó, lão quay ngoắt lại tháo chạy, cố kéo đôi chân lẹ làng hơn bất cứ lúc nào từ hai mươi năm nay và vội tiến tới cầu thang.
“Ơn Trời! Ông ấy còn sống! Lão la to chói tai. Ông ấy còn sống! Ông ấy tỉnh lại! Đội trưởng, đội trưởng Roberts! Ông đến đây ngay đi! Một trong những tử thi đã tỉnh lại!”
Lão thở hổn hển, đi ngang chỗ Furness và Morgan, bước lên cầu thang đi kiếm đội trưởng trực. Bradley cố nén tiếng cười từng hồi, nhảy xuống dưới chiếc khay ở ngăn số 11, ném vào trong chiếc drap phủ người và đóng sập cửa lại.
Anh cười rúc rích: “Nào, mấy ông tướng”, rồi bật cười to khi gặp các bạn. “Nhanh lên, ta lên cầu thang bên kia, trước khi đội trưởng đi xuống. Từ khi bị loét bao tử, chẳng có người nào rầu rĩ làm mất vui hơn ông ta đâu, và ông ta sẽ nổi cáu đấy!”
Ba người đã trở lại phòng báo chí lúc nghe thấy trong hành lang tiếng bước chân của người canh nhà xác và viên đội trưởng. Già Pop vẫn còn càu nhàu, giọng rời rạc:
“Ông ta đã ngồi dậy, đội trưởng à... Tôi nói là ông ta đã ngồi dậy, ông nhìn tôi, và ông...”.
Không nghe giọng ai nói nữa khi họ cùng bước xuống cầu thang đi tới nhà xác. Bradley ngửa người trên ghế, cười rũ rượi. Morgan cười rúc rích, rồi luống cuống, im bặt. Furness, vẫn còn tự giận mình vì đã chấp nhận phụ giúp hai người kia, châm điếu thuốc rồi giụi tắt ngay.
Ba phút sau, viên đội trưởng mập mạp trở lại, dọc theo hành lang. Ông dừng lại bên ngoài gian phòng, ném về phía họ tia nhìn nhanh như chớp.
“Lại trò đùa dai, ông càu nhàu. Chả khác mấy tay hề rạp hát!”
Và rồi, ông cũng biết ông có thể đi tới đâu và cái giới hạn không nên vượt qua nếu trút cơn giận lên đám nhà báo, ông bèn nện gót giày trở lại phòng làm việc.
“Các cậu đã thấy khuôn mặt ông đội trưởng! Bradley nấc lên, cười vặn cả người lên như vẫn thường làm mỗi lần diễn trò. Ông ta đau đớn chẳng khác con lạc đà bị chém vào lưng. Ông ta... nhưng mà này, các cậu có chuyện gì thế?” Anh ta ngừng lại hỏi, vì thấy Furness và Morgan không theo dõi lời mình nói. Các cậu không còn vui cười khi có trò đùa nữa à?”
“Tôi ra ngoài đây, Furness nói trống không, anh đưa tay ra lấy cái mũ. Nếu có ai gọi đến, bảo là tôi đang xác minh một chuyện.”
Anh đi ra.
“Lại một tên làm mất vui!” Bradley càu nhàu.
Morgan nhún vai, có vẻ đã tỉnh rượu.
“Dầu sao, có vẻ như ý tưởng chưa hay lắm. Tôi ra ngoài kiếm vội chút gì lót lòng, rồi về nhà luôn. Báo đang lên khuôn rồi.”
Rồi anh ta cũng bỏ đi. Bradley nhăn mặt, rồi lấy ra điếu xì gà, cắn vào đầu và nhả ra trên sàn.
“Tôi ghét nhất những tên xem thường những trò đùa”, anh lầm bầm.
Anh ta đang châm điếu xì gà thì Pop Hendersen lê gót đi tới, ngừng ngoài cửa và nhìn vào trong phòng.
“Cũng chẳng có gì quan trọng đâu, ông Bradley ạ, lão nói mà chẳng lên án anh ta, cũng không cao giọng hơn bình thường. Tôi bị một vố đau, nhưng tôi không phiền hà gì. Có điều là, ông thấy đó, tôi sẽ gặp rắc rối với đội trưởng Roberts. Ông ta không ngừng phàn nàn tôi, ông nổi cáu vì tôi bất ngờ kéo ông vào chuyện.
Ông đi với tôi xuống hầm và thấy các tử thi vẫn nằm yên chỗ. Ông bảo là tôi bị ảo giác. Nhưng khi tôi nói là nhóm nhà báo các ông vừa ghé qua đây, ông ta hiểu ngay rằng đây là trò đùa của các ông.”
Pop ngừng một lát để lấy hơi, mắt nhìn Bradley, nhưng không chút oán giận. Bradley chậm rãi châm thuốc.
“Ông ta nói nếu tôi còn nhầm lẫn như vậy thêm một lần nữa, ông ta sẽ làm việc phải làm, tức là cho tôi về, như đáng lẽ tôi phải chịu từ nhiều năm nay rồi. Mà tôi thì không muốn về, tôi cần tiền. Vậy đó, ông Bradley, ông làm ơn đừng đùa nữa!”
Lão vẫn đứng ngay tại chỗ một lúc nữa, rồi bỏ đi, dáng nặng nhọc. Dave Bradley nhún vai, nhả vòng khói tròn, và cầm lấy điện thoại.
“Báo Tin nhanh phải không ạ? Thư ký tòa soạn đấy à? Tôi, Bradley đây. Chẳng có gì sốt dẻo ở đây cả. Báo đang lên khuôn sao? Tốt. Tôi về nhà đây. Từ giờ đến sáng mai, đừng đợi tôi.”
Anh gác máy, thở vòng khói tròn nữa, rồi đi ra.
Bên ngoài, trời lạnh và tối, anh do dự. Tâm trạng anh lúc này chuyển sang khó chịu, bởi điều thiết yếu đối với anh, hơn cả rượu hay phụ nữ, là được vui, được cười, được bày trò. Uống chút gì đã, anh quyết định, nhưng không muốn đến nơi nào có thể gặp Furness và Morgan. Anh chọn một quán rượu nhỏ ở khu bến tàu, nơi không có cánh nhà báo lai vãng.
Quán chật và dơ, nhưng uống rượu vào cũng ấm người. Sau ly thứ ba, anh thấy vui trở lại. Lại thấy linh hoạt. Thêm một ly nữa, niềm vui bừng bừng trong người như thường lệ. Anh bắt đầu suy nghĩ một trò mới. Một buổi tối còn có ý nghĩa gì nếu không có trò đùa, không có trận cười ngả nghiêng, không có bầu bạn cùng góp vui? Chán cho hai tay Furness và Morgan. Những tên rầu rĩ mất vui!
Anh liếc nhìn quanh. Đã khuya lắm, hai giờ sáng. Quán đã vắng khách. Chỉ còn mình anh, chủ quán và một người nhỏ bé, gầy còm, chân gác lên thanh chắn đồng, đang uống bia. Nhìn bên ngoài thì có vẻ chủ quán cũng biết cười đùa, còn anh chàng nhỏ thó kia rồi cũng thế thôi, cái ngữ chỉ còn da bọc xương thế kia thì còn làm gì khác được.
Bradley vừa cười khẽ vừa cúi xuống cột giây giày. Với bàn tay lanh lẹ, anh nhét một que diêm giữa đế giày và thân giày anh chàng bé nhỏ đang ngồi uống kia. Anh châm que diêm rồi đứng dậy, gọi thêm một ly rượu nữa.
Anh nháy mắt cho chủ quán khi người này rót rượu. Rồi anh hất đầu về phía khách hàng:
“Rồi anh xem!”, anh thì thầm.
Chủ quán không hiểu gì, mở to mắt. Bradley, miệng toe toét, cố nén khỏi cười to. Người khách nhỏ thó bỗng hét lên, nhảy lò cò về phía sau, rồi lấy tay dập mạnh lên que diêm đang cháy.
Bradley để cho tiếng cười lan tỏa, tìm sự hưởng ứng nơi chủ quán. Người nhỏ thó đặt chân xuống đất, làu bàu mấy tiếng rồi quay về phía nhà báo:
“Thằng...” y nói ngắn gọn, không buồn tiếp cho hết câu. Sau đó y đấm.
Cú đấm trúng ngay vào miệng Bradley khi anh quay đầu lại, khiến môi anh va mạnh vào răng. Anh lảo đảo, không bám được vào các thanh chắn, ngã lăn cả người, cổ đụng kêu thật to vào thanh ngang bằng đồng ở quầy rượu. Anh chỉ còn đủ thời gian để cảm thấy tiếng kêu rắc đáng sợ ở đâu đó trên sọ và thấy ánh sáng tắt hết.
Người nhỏ thó đưa mắt khinh bỉ nhìn anh.
“Tên khốn kiếp. Muốn đốt chân tao. Đụng đến tao, Kid Wilkins hả!”
Chủ quán đi lắc lư ngang qua quầy rượu, chùi tay trên chiếc tạp dề dơ bẩn.
“Chú mày đánh mạnh quá đó, Kid, ông thì thầm, mắt giương to. Hắn ta yên lặng lắm rồi đây này.”
“Có gì đâu! Cú đấm thẳng từ bên trái vào ngay mồm, anh chàng càu nhàu, đủ để bay một, hai cái răng thôi mà. Lần tới, y sẽ suy nghĩ trước khi bày trò kiểu đó.”
“Cái đầu anh ta, chủ quán nói, vẻ lo lắng, nó nghẹo kỳ khôi lắm. Chú mày có nghĩ là...”.
Ông ngồi xổm xuống, không nói hết câu. Ông tìm mạch của Bradley và luồn tay dưới áo sơ mi. Thế rồi, khuôn mặt hồng hào của ông bỗng trở nên xám xịt, ông liền đứng dậy, nói giọng khàn khàn:
“Hắn chết rồi. Chết như con cá trích đông lạnh.”
“Chết à?” Chàng nhỏ thó vuốt nhanh tay lên môi.” Mẹ kiếp! Chỉ là tai nạn thôi! Tôi đâu có nện mạnh lắm khiến hắn ta đau. Tai nạn thôi, ông hiểu chứ?”
“Tất nhiên, tất nhiên rồi. Kid, một tai nạn.”
Chủ quán bước thật lẹ đến cửa, vặn chìa khóa, hạ tấm rèm xuống như thể quán đóng cửa nghỉ và tắt tất cả đèn bên ngoài. Sau đó ông tới gần Bradley.
“Rầy rà rồi đó Kid, ông thì thầm, tay lục các túi quần Bradley. Không có cái xác chết trong nhà tao cũng đã đủ chuyện cãi cọ với bọn cớm, còn chú mày, mày đã có hai tiền án vì gây thương tích.”
“Được thôi, được thôi, Kid Wilkins nói lạnh lùng, tôi dân máu lạnh và biết sử dụng nắm đấm. Dẫu sao, cũng có chuyện rồi. Giờ ta phải làm gì đây?”
Chủ quán vội xem xét những thứ trong chiếc ví ông lấy ra từ túi Bradley.
“Này Kid, ông nói, không chỉ là chuyện phiền toái đâu. Rắc rối to đấy. Tay này là phóng viên báo Tin nhanh. Thứ tệ hại chẳng kém bọn cớm đâu.”
“Phóng viên sao? Kid Wilkins cay đắng nói. Vậy sao y lại đốt chân tôi, sao tôi lại đấm vào mặt y, sao tôi lại làm y gãy cổ! Tại sao vậy? Nói cho tôi biết đi! Tại sao?”
“Đừng hỏi tại sao. Tao có ý này. Đem hắn ra khỏi đây. Quẳng nó đằng kia, trên bến tàu. Làm sao cho có vẻ là nó bị đấm vào mõm... hoặc là vì quá say nên nó bị té.”
“Vâng, vâng, và tạm biệt!” chàng nhỏ thó vui ra mặt.” Sáu giờ tàu của tôi đã nhổ neo, tôi không bao giờ trở lại bến cảng này, thế thôi. Nếu người ta lần theo dấu vết tìm tới đây, hắn đã say khi ra về, và ông chẳng biết gì.”
“Đúng vậy. Bây giờ chú mày đến đây. Ta phải lấy hết các thứ trên người hắn. Như vậy họ sẽ mất nhiều thời gian hơn để xác minh lai lịch. Cuộc điều tra sẽ kéo dài. Sau đó, ta sẽ lôi hắn ra tận bến tàu.
Ông nhanh nhẹn lục hết các túi của Dave Bradley, chuyển hết các thứ vào túi mình, rồi tắt hết đèn và mở cánh cửa sau trông ra con đường mòn tối tăm và tắc nghẽn.
Một lát sau, hai người lặng lẽ đi ra, dìu Bradley hai bên như dìu một kẻ say rượu đi không vững, và cánh cửa khép lại.
Bradley bất chợt tỉnh lại, đúng ra là nửa tỉnh nửa mê, đủ để anh nhận ra là mình còn sống. Anh thử cựa quậy, nhưng toàn thân tê cóng và các cơ không chịu theo ý anh. Anh không cảm thấy chút đau đớn nào, chẳng có chút cảm giác nào. Cũng không thể biết đích xác đang ở tư thế ra sao, tuy là thấy như đau ở lưng. Một ý nghĩ mơ hồ chợt lướt qua tâm trí:
“Cái cổ, mình bị đụng mạnh vào cổ khi té xuống. Còn cột sống, ngày trước khi chơi đá bóng mình đã bị vẹo. Sau đó còn bị một lần nữa. Cũng giống lần trước, phải nằm suốt tháng, hầu như không động đậy. Nhưng cú này, tệ hại hơn. Đau hơn. Mình nghe tiếng gãy khi té xuống.”
Sau đó, anh nghe có tiếng nói. Nghe nhỏ thôi, hình như từ rất xa vọng lại:
“O.K. Bây giờ là việc của ông. Anh ta được tìm thấy phía bên bến tàu. Nhìn mặt thì thấy anh bị đấm ngay vào mồm. Anh ta đã lạnh cóng khi bác sĩ nội trú tới gần, nằm dài ngoài trời vào đêm tối buốt giá thế này chẳng tốt chút nào. Bác sĩ trực không tìm thấy mạch, cũng không thấy tim đập. Bởi thế bác sĩ chuyển đến cho ông. Hãy đặt anh ta nằm xuống và trông nom cẩn thận. Ngày mai sẽ giải phẫu tử thi.”
Tiếng nói im hẳn. Bradley cảm thấy có người nhấc ông lên và di chuyển ông. Nghe có tiếng cạch nơi cổ, và bỗng nhiên ông mở mắt ra được, như thể dây thần kinh được ấn nhẹ vào.
Cho dù chỉ tỉnh táo chút đỉnh, khung cảnh chung quanh anh thấy rất quen, có thể nhận ra được.
“Pop, anh thì thầm, Pop Hendersen.”
Ông già chẳng để ý, cứ xoay chuyển tay chân của Bradley cho ngay ngắn. Bradley lại cố tiếp tục nỗ lực lần nữa.
“Pop, lần này nói to hơn một chút. Pop, tôi còn sống.”
Ông lão canh nhà xác cúi người xuống, quay lại, nhíu mày. Bradley, cố hết sức, thử gọi lần nữa:
“Pop!”
Lần này nghe như tiếng quạ kêu.
“Tôi đây mà, Dave Bradley đây. Tôi còn sống. Cho mời bác sĩ nhanh lên!”
Pop tỏ vẻ hoảng sợ. Ông cúi xuống sát Bradley, nhìn chăm chú.
“Ông Bradley, lão bàng hoàng nói. Mặt ông sưng phù như thế tôi không nhận ra được. Không ai nhận ra được.”
“Ông đừng bận tâm điều đó. (Mỗi tiếng nói ra là một cố gắng vượt bực anh ta chưa hề phải làm như vậy). Tôi còn sống. Hãy đưa tôi ra khỏi đây. Tìm cho tôi một bác sĩ.”
Pop Hendersen do dự, bối rối, không quyết đoán được. Rồi lão cầm lấy chiếc drap mở ra.
“Ông Bradley ạ, tôi nói với ông rồi, đừng đùa nữa. Tối nay đã một lần, vậy là đủ rồi.”
Lão cẩn thận phủ tấm drap trên tấm thân nằm dài.
“Đội trưởng Roberts sẽ không tha thứ cho tôi nếu tôi bị lừa một lần nữa, lão nghiêm khắc nói. Thôi, ông Bradley, một đêm không thể hai lần đâu!”
Rồi ông thong thả đẩy chiếc khay có rãnh trượt vào trong ngăn, đóng cửa lại, đánh số 12, và xoay cái nút bấm giữ cho cửa đóng chặt.
Sau đó, bước đi nặng nề, ông trở lại phòng làm việc, ngồi xuống, kiên nhẫn chờ đến giờ ra về.
(TCSH349/03-2018)
TRẦN THÙY MAI.Năm giờ sáng, máy bay chở chúng tôi đáp xuống sân bay Incheon. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên vang lên với lời cảm ơn và câu chào tạm biệt, sau khi báo một thông tin làm chúng tôi ớn lạnh: Nhiệt độ bên ngoài là 4 độ C...
ĐẶNG NHẬT MINHLà một thương cảng của Nhật Bản, nhưng Fukuoka lại được nhiều người biết đến như một thành phố của nhiều hoạt động văn hoá mang tầm quốc tế. Tôi có duyên nợ với thành phố này từ năm 1991 khi được mời tham dự Liên hoan phim quốc tế Fukuoka lần thứ nhất với bộ phim Bao giờ cho đến tháng 10.
PHẠM XUÂN PHỤNGChữ tea trong tiếng Anh là do dùng mẫu tự La -tinh để ký âm chữ trà (âm Hán Việt) mà người Trung Hoa nói rất rõ là chè. Lâu nay cứ tưởng chè là tiếng thuần Việt hoặc là biến âm của trà, hóa ra chè lại là từ gốc của trà. Mẹ mà nhầm là con, vui thật.
BÙI NGỌC TẤNLần đầu tiên đặt chân tới Châu Âu, có biết bao nhiêu ấn tượng. Ấn tượng về những nét mặt người, về những dáng người đi, về bầu trời không vẩn bụi trong veo, về những xa lộ, về những chiếc xe phóng với tốc độ 140 kilômét không một tiếng còi, nối nhau trên các con đường tám đến mười làn xe chạy không còn biên giới cách ngăn...
NGUYỄN VĂN DŨNGCó người nói Praha đẹp hơn Paris . Tôi không tin. Nhưng bây giờ thì tôi thấy nhận xét ấy không phải không có căn cứ. Praha là thành phố cổ kính nguyên vẹn nhất châu Âu, là “thành phố của trăm tháp vàng”, là “bài thơ bằng đá”, là khúc hát đắm say, là cốc rượu nồng nàn, là bức tranh tuyệt mĩ, là mảnh thời gian còn sót lại... Năm 1992, Praha được công nhận là di sản văn hoá thế giới.
PHẠM THỊ CÚCCó người nghĩ rằng, ở các nước giàu, thì ít người thất nghiệp. Không đâu, ở Pháp, người thất nghiệp cũng khá nhiều, mà đâu phải vì không có bằng cấp mà thất nghiệp, đa số họ đều có bằng kĩ sư, cử nhân, cả thạc sĩ hẳn hoi.
NGUYỄN VĂN DŨNGAmazon là tên khu rừng lớn nhất thế giới. Amazon cũng là tên con sông, theo khảo sát mới đây, là con sông dài nhất thế giới. Amazonas, quê hương của hai Amazon kia, là bang rộng nhất trong 26 tiểu bang của Brasil - rộng hơn cả diện tích của nước Anh, Đức, Pháp, Ý cộng lại. Còn Manaus, là kinh đô của Amazonas miên man núi rộng sông dài.
NGUYỄN VĂN DŨNG Tôi thật sự xúc động khi đứng trước ngôi mộ của Lý Tiểu Long. Trước đây tôi hình dung nơi an nghỉ cuối cùng của anh phải là một ngôi đền cực kỳ tráng lệ cho xứng với tên tuổi lẫy lừng của anh. Sau khi anh mất, một tờ báo ở Sài Gòn hồi đó viết đại loại trong thế kỷ XX, anh là một trong ba nhân vật nổi tiếng nhất châu Á.
NGUYỄN VĂN DŨNGVới Phật giáo, Linh Thứu là ngọn núi thiêng. Sau khi thành đạo, một thời gian dài Linh Thứu là trú xứ của đức Phật và các đệ tử của Ngài. Tại đây Ngài đã giảng kinh Pháp Hoa và nhiều bộ kinh quan trọng khác. Linh Thứu còn là nơi khởi phát dòng Thiền Ấn Độ để rồi từ đây hạt giống Thiền được gieo trồng khắp nơi trên trái đất.
PHẠM PHÚ PHONGTrong lịch sử đất nứơc Trung Hoa có sáu nơi được chọn làm thủ đô, theo thứ tự Lạc Dương, Tây An, Nam Kinh, Khai Phong, Hàng Châu và Bắc Kinh là thủ đô thứ sáu, tồn tại cho đến ngày nay. Bắc Kinh đầu tiên là kinh đô của nước Yên, nên còn gọi là Yên Kinh, sau đó đến thời Minh Thành Tổ cho xây dựng trở thành Bắc Kinh ngày nay. Với diện tích 18.826 km2, Bắc Kinh rộng gấp 18 lần so với thủ đô Hà Nội, được mệnh danh là thành phố bốn nhiều: nhiều người, nhiều xe, nhiều cầu vượt, nhiều di tích...
Từ một trại lính đầy vết đạn ở vùng California (Hoa Kỳ) đã xuất hiện một tu viện Phật giáo - Tu viện Lộc Uyển - do nhà sư gốc Huế - Thiền sư Thích Nhất Hạnh - gầy dựng. Tại đây, ảnh hưởng của Thiền học Việt Nam đã tạo được một sự chuyển hóa đầy thử thách: biến trung tâm luyện tập bắn súng trở thành thiền đường đầy ánh sáng và tình thương, có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiếu người ở Hoa Kỳ.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Teresa Wattanabe đã đăng trên tờ Los Angeles Times, tờ nhật báo lớn hạng ba của Hoa Kỳ, với bản dịch của Làng Mai và ảnh của Nguyễn Đắc Xuân để giới thiệu với bạn đọc như một dòng chảy của văn hóa Phật giáo xứ Huế.
TRẦN THÙY MAICác quan chức ngành khí tượng Nhật Bản đã cúi gập mình xin lỗi toàn dân: Hoa anh đào sẽ nở ngày 23 thay vì 16 - 3 như dự báo. Đến sân bay Narita vào đúng sáng 24, tôi tự nghĩ mình đến rất kịp thời, nên khi cậu cảnh sát làm thủ tục nhập cảnh hỏi về mục đích đến Nhật, tôi đã không ngần ngại trả lời chắc nịch: “Ngắm hoa anh đào”. Cậu cảnh sát khoanh cái rụp vào lời khai của tôi và “OK” ngay với một nụ cười trên môi.
NGUYỄN VĂN DŨNGNằm giữa trung tâm bán đảo Iberia, thủ đô Tây Ban Nha trải rộng trên các ngọn đồi dưới chân rặng Sierra de Guadarrama, ở độ cao 640m so với mặt nước biển - là thành phố cao nhất châu Âu. Diện tích 607 km2. Dân số gần 4 triệu người.
KEVIN BOWEN
(Giám đốc WJC)
LTS: Trong 25 năm qua tên tuổi nhiều nhà văn, nhà thơ của Trung tâm William Joiner (Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ) như Kevin Bowen, Fred Marchant, Nguyễn Bá Chung, Lady Borton, Martha Colline, Bruce Weigl, Lary Heinemann... đã xuất hiện trên Sông Hương cũng như trên nhiều báo chí văn nghệ, văn hoá trong nước với những tác phẩm tâm huyết, mến yêu đất nước Việt Nam cũng như những hoạt động trên các lãnh vực giao lưu văn hoá, giúp đỡ y tế, giáo dục cho Việt Nam sau chiến tranh, như những biểu hiện của sự ân hận, tủi hổ với những gì mà đất nước họ đã gây ra trên mảnh đất này.
NGUYỄN BÁ CHUNG
Tháng 10 năm 2007 đánh dấu 25 năm thành lập trung tâm Joiner. Nhưng với tôi, nó đánh dấu một đoạn đường 20 năm nổi chìm với trung tâm, trong đó có 15 năm làm thiện nguyện và 10 năm cuối cùng làm việc chính thức. Hai mươi năm là một thời gian dài đủ để nhìn lại, ghi lại một số kỷ niệm và rút ra một số kinh nghiệm để nhìn tới đoạn đường phía trước.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNHoạt động yêu nước ở miền Nam từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi không lạ gì nước Mỹ. Thuở ấy, Phan Ch. anh bạn vong niên của tôi làm phiên dịch ở cơ quan MACV ở Huế từng bảo tôi “Người Mỹ giống như một cậu bé con nhà giàu nhưng thiếu lễ độ”.
VÕ QUÊNhận lời mời của Hội đồng quốc gia vì nghệ thuật truyền thống Hoa Kỳ (National Council for the Traditional Arts), đoàn nghệ sĩ thuộc Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tham dự Festival dân ca dân nhạc tại thành phố Lowell, bang Massachusetts, Hoa Kỳ từ ngày 25-7-1995.
NGUYỄN XUÂN THÂMChúng tôi đến Aten vào cuối tháng chín, mà buổi trưa vẫn còn oi bức như bao trưa miền biển ở Việt . Thanh Tùng và tôi loay hoay mãi vẫn không bắt được taxi để chuyển tiếp đến sân bay nội địa.
NGUYỄN VĂN DŨNGSau Cali tôi định đi Dallas, nhưng rồi chuyển hướng, tôi lên Seattle theo vẫy gọi của bạn bè. Ai ngờ cái thành phố nầy dịu dàng, xanh và đẹp đến vậy. Hèn chi người ta gọi nó là “Thành phố ngọc bích” ( Emerald City ), hay “Mãi mãi xanh tươi” ( Evergreen State ).
PHẠM THƯỜNG KHANHĐầu năm nay khi biết tôi chuẩn bị đi công tác Trung Hoa, em gái tôi, một người thơ gọi điện từ Huế ra bảo: “Anh cố gắng mà cảm nhận vẻ đẹp rực rỡ của văn minh Trung Hoa. Hình như với bệ phóng vững chắc của nền văn minh hàng ngàn năm ấy, người Trung Hoa đang có những cuộc bứt phá ngoạn mục và trong tương lai dân tộc này còn tiến xa hơn nữa”. Là một quân nhân, tôi đâu có được trí tưởng tượng phong phú và trái tim dễ rung động như em tôi, nhưng 10 ngày trên đất nước Trung Hoa đã để lại trong tôi những ấn tượng thật sâu đậm.