Người quê hòa nhập với hồn quê

10:16 09/03/2010
THÁI DOÃN HIỂUNgô Văn Phú là thi sĩ của đồng quê. Anh có thể viết nhiều đề tài như xây dựng, chiến tranh, lịch sử, tình yêu..., nhưng như lá rụng về cội, ngược về nguồn, Ngô Văn Phú trở lại nơi làng quê yêu dấu với một tình yêu bẩm sinh, yêu đến tận cùng gốc rễ như Nêruđa đã viết.

Nhà thơ Ngô Văn Phú - Ảnh: evan.vnexpress.net

Ngô Văn Phú xem quê hương là mẹ hiền. Tình cảm đó mạnh hơn mọi lý lẽ ở đời. Nó là sự tột cùng của dòng máu chảy, là nhân tố kích thích sâu sắc và đẹp đẽ nhất để anh tạo tác ra thơ. Vâng, ai có thể quên được nơi chôn nhau cắt rốn, nó luôn đau đáu hiện diện trong trái tim mình.

Quê anh là vùng bán sơn địa "Núi ngồi núi đứng, núi trầm tư/ Trong mây kia núi đá đang mơ", với cọ già, cọ non, cọ ngồi, cọ đứng, cọ nghiêng, với bạt ngàn hương chè, hương ổi, hương cau, hương cỏ mật, "thơm hồn tre nứa".

Đó là một cõi đi về để thương để nhớ, để gửi gắm cả đời mình. Ngô Văn Phú đã dành trọn thủy chung với làng quê thôn ổ.

Anh yêu da diết, cảm nhận được cái rùng mình của cành cọ, nhớ được "mắt cây thì sáng, tiếng gà thì xanh". Anh "chạm má chạm vai" trong lễ hội tắt đèn với lớp trẻ. Anh cà rỡn với chú tễu. Anh bỡn cợt với thầy cô Cóc. Anh tinh quái thuật lại đám cưới chuột. Anh kể về linh hồn của dân tộc trong lễ hội mùa xuân dưới ánh trăng xưa, những chuyện cổ thần kỳ Tiên Dung Chử Đồng Tử. Anh nhận chân được giá trị vĩnh hằng của tranh Đông Hồ. Anh quan tâm đến điếu cày, chim cun cút, phố huyện, mặt chữ điền, vai áo vá, cơm đồng, bạn trà chân đất. Anh rộn ràng với "Nhà nhà gặt hái vui như tết/ Liềm hái rào rào từ tinh mơ", cùng tất bật với những bữa cơm ngoài đồng "ăn uống rào rào theo kiểu thợ". Anh thông cảm sâu sắc với số phận người nông dân "Họ lo lắng, lưng còng, lụ khụ/ Dốc sức cả đời cho hạt lúa", đem đối  sánh "Phố phường lộng lẫy như tiên cả/ Chỉ đám nhà nông vất vả thôi" để cảm thương. Anh viết về người đàn bà gánh rau lang ra chợ bán được mấy đồng tiền còm " Tay chị cầm lăm lẳm/ Đồng bạc thấm mồ hôi". Anh trân trọng viết về làng đồi, làng hạ làng đông, về giấc ngủ thanh thản của chàng trai làng sau buổi cày. Anh còn viết về Mẹ, Chị tôi, Dượng tôi, về lão du kích, với giọng kể thật xót xa đến ngậm ngùi... Anh thích thú với cái trò "Trai trao, gái đón, trời ơi, mắt/ Trái cấm hình sau giải yếm đào". Anh ngửng đầu lên ngắm "Cơn mưa nghịch ngợm làm vua bầu trời". Anh lo lắng đến trân trọng "nhịp tim mẹ vẳng trong trời sấm".Anh khát uống "chim no tiếng hót trĩu chùm nhạc". Anh lắng lòng để xem "nhạc mưa trên cọ có thừa tiếng vang". Anh tìm hiểu vì sao "tiếng chim kêu đục dòng sông trắng". Anh náo nức với hội làng "tiếng chiêng đè tiếng trống". Anh hòa mình vào trong "câu hát tuổi dậy thì đỏng đảnh". Anh cảm thức được hồn dân tộc "Mà sao năm tháng trên tranh tết/ Tiếng trống vinh quy vẫn rộn ràng" Anh "thấy" được "Hương dừa bay thấu qua đêm/ Hoa cau bay đến tận thềm mới rơi". Anh nhập thân vào trong cô gái làng vườn "Ước gì gioi hóa thành roi/ Để em vụt chết cái người vô duyên". Anh có những ước mơ muốn trẻ con như cổ tích "Ước chi cây hóa ra người/ Để xem cây khóc, cây cười ra sao". Anh hiểu được giá trị của lao động một nắng hai sương "Bàn tay đến chết còn thơm hương đồng". Anh dỏng tai lắng lời bà kể "Con sâu cái kiến có linh hồn". Anh tinh tế nhận ra được "Quả sim chín chậm thơm đầu ngón tay". Anh pha trò rất có duyên: "Ở đây trai gái là trên hết/ Nên trên mặt gỗ cũng tình tang". Anh ngạc nhiên đến bất ngờ trước mấy con tắc kè "Đã chết cứng trong bình rượu thuốc/ Mắt còn thô lố vẫn chưa tin". Giao đãi với thiên nhiên, anh nhìn thật sâu lắng "Nắng hôn lên gió, gió hôn nắng/ Nên mới lung linh ở lá nhành". Anh hồn nhiên ríu rít như trẻ nhỏ đi chợ tết; anh e thẹn một cách trinh bạch như những đôi lứa khi ngập vào hồn đêm trong Hội tắt đèn.

Sự hôn phối giữa hồn người và ngoại cảnh, xôn xao âm hưởng dân gian, vang ngân giai điệu núi đồi trong trẻo, hồn hậu, say đắm tiếng trống chiêng, điệu xòe, vang ngân giai điệu đồng quê, nhịp sống cần lao. Ở đó có những tập tục - thứ luật pháp bất thành văn mà cha ông nghìn đời tự giác tuân thủ, những phép ứng xử, những rung cảm đồng điệu, thuần phác đến sởi lởi, thắm đượm tình người chân đất "Người quê hòa nhập với hồn quê"

Vì sao Ngô Văn Phú lại sống hết mình được như vậy ở làng quê? Anh bảo "Tôi cũng chính là họ mà thôi". Anh đúng là một nông dân chính tông! Có lần, nhà thơ tâm sự: "Lòng tôi không lúc nào nguôi ngoai về một quê hương mà từ khi  tôi chào đời đến nay, mảnh đất trung du đã trải qua bao nhiêu thử thách, vui buồn. Tôi gửi gắm vào thơ lòng yêu quê da diết nhất. Tôi buồn khổ với từng đám cọ cháy. Tôi vui với ánh trăng hò hẹn nhưng cũng phập phồng về những tiếng vạc khô héo chen ngang... Tôi viết theo sự thôi thúc của tâm hồn tôi. Tôi yêu, tôi mải mê với những phong tục tốt đẹp xưa, với những cô gái làng xinh đẹp mà cuộc đời ít có mấy ngày hạnh phúc" (Lời tựa Mặt trái xoan, 1993)

Còn gì sung sướng bằng khi được sống giữa lòng dân dã, hòa mình vào hoa cỏ, ao vườn, thôn mạc, núi non, khe suối, mây gió, chim thú... trò chuyện cùng nó như một người bạn. Thiên nhiên sẽ mở lòng ra làm nhuần nhị con người lại, làm ta giữ được nhân tính. Thiên nhiên cho ta vay mượn những điều huyền bí của nó để ta tha hồ mà bắt chước sáng tạo.

Thật chí lí khi Satôbriăng nói rằng: "Tạo hóa dường như buộc chân chúng ta vào quê hương bằng những sợ dây vô hình".

Ngô Văn Phú nối thơ mình với văn mạch dân tộc tạo dưỡng chất hô hấp cho tác phẩm. Nhà thơ đã hình thành được bản sắc đồng quê, diện mạo trung du, cốt cách trung du.

Cũng rất lạ là sống chủ yếu ở giữa đô thị lớn "hương đồng gió nội" không bay đi chút nào cả. Với phố xá mọc lên, anh còn dị ứng với đà tiến triển của văn minh đô thị (!?) Nếu còn sống, chắc Nguyễn Bính sẽ hài lòng với Ngô Văn Phú?

Sau Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân, Ngô Văn Phú, thêm Trần Đăng Khoa nữa là người hoàn chỉnh bức tranh làng quê Việt Nam , nâng nó lên tầm cao.

Thơ tình của Ngô Văn Phú là thứ tình yêu nửa thực nửa mộng, lúc nào cũng giữ được trinh nguyên như mối yêu đầu, đậm đà hương vị dân gian, thoang thoảng như hương bưởi về khuya.

Co bùa mê là bài thơ tình hay tiêu biểu cho phong cách đó.

Ngô Văn Phú khai thác được nhiều nét ngộ nghĩnh dân dã trong khẩu ngữ, giàu chất ký, ngôn ngữ để mộc ít sơn phết, hồn nhiên như chính sự sống. Thơ anh dễ đồng cảm bởi nó ấm áp tình quê, tình đời, tình người.

Bên cạnh đó, nhược điểm dễ nhận trong thi phẩm của Ngô Văn Phú là đề tài hẹp, cắt nhỏ, tứ cũ, nhịp thơ đi phẳng lặng gây đơn điệu, có không nhiều lắm bài toàn bích cỡ như Tơ hồng và cúc tần, có không nhiều lắm những câu hỏi gây ấn tượng cỡ như:

            Áo em gom hết mùa thu chín
            Hồn phố dâng theo một giải vàng

                                                (Thu Vàng)

Anh thiên về tư duy hình tượng, thi hứng cụ thể cảm tính thì tươi mát, thấm, còn khi anh tư duy lôgíc, tư biện lý sự một chút thì khô, ít gây được cảm xúc thẩm mỹ (các bài Hoa trắng tình yêu, Con tàu trắng). Thơ Ngô Văn Phú viết ngắn thì đọng, viết dài doãng tứ ra ngay.

Thơ Ngô Văn Phú đậm đà chất tự truyện, nó là những bức chân dung tự họa của anh.

Xuất thân trong một gia đình dòng dõi nho học, Ngô Văn Phú đã tự học để có thể đọc Kinh thi, Luận ngữ, Đường thi, thơ chữ Hán của Tùng Thiện Vương trong nguyên bản. Anh biết tiếng Pháp để giao tiếp với văn hóa phương Tây làm lịch lãm cây bút của mình, hình thành nên bản lĩnh sáng tạo nghệ thuật riêng tránh những ảnh hưởng ngoại lai, pha tạp. Anh không bao giờ "lóa mắt trước những hình thức có vẻ mới nhưng không hợp với phủ tạng của mình".

Ngô Văn Phú là con người nhân hậu, thủy chung. Anh không giám cười to, không giám thở mạnh, biết ngà ngà chớ không say, nhỡ say thì giữ không mê. Hài hòa giữa tâm hồn với ngoại cảnh, giữa tư tưởng với hiện thực, cái đẹp của Ngô Văn Phú chứa trong sự giản dị, thanh khiết, hàm súc. Hồn thiêng đất nước ẩn náu trong Ngô Văn Phú. Thơ anh mang tầm văn hóa cộng đồng.

T.D.H
(132/02-2000)





 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trước khi đưa in, tôi có được đọc bản thảo tiểu thuyết Phía ấy là chân trời (1), và trong bài viết Đóng góp của văn xuôi Tô Nhuận Vỹ (tạp chí Văn Học số 2.1988) tôi có nói khá kỹ về tiểu thuyết nầy - coi đây là một thành công mới, một bước tiến trên chặng đường sáng tác của nhà văn, cần được khẳng định.

  • NGUYỄN THỊ NGỌC ÁNH

    Đọc truyện ngắn Hồng Nhu, tôi có cảm tưởng như mình đang lạc vào trong một thế giới huyền thoại, thế giới của những lễ hội, phong tục, tập quán xưa huyền bí mà có thật của người dân đầm phá Tam Giang.

  • Bằng sự tinh tế và thâm trầm của người từng trải, Nguyễn Đình Tú đưa tới góc nhìn đa dạng về người trẻ trong tập truyện ngắn "Thế gian màu gì".

  • Qua đi, với những hoa tàn tạ
    Hoa trong hồn ta, ai hái được bao giờ
                                         Victor Hugo*

  • Nhà báo Phan Quang nghiên cứu, phân tích truyện dân gian để mang tới bức tranh văn hóa xứ Trung Đông trong cuốn "Nghìn lẻ một đêm và văn minh A Rập".

  • Những độc giả từng yêu thích Nắng và hoa, Thấy Phật, Khi tựa gối khi cúi đầu, Chuyện trò... - những tập sách đã có một góc riêng sang trọng trên kệ sách tản văn Việt bởi góc nhìn uyên thâm, giọng văn ảo diệu của GS Cao Huy Thuần - nay vừa có thêm một tặng phẩm mới: Sợi tơ nhện.

  • Y PHƯƠNG

    Trong một lần đoàn nhà văn Việt Nam đi thực tế sáng tác ở Bình Liêu, Móng Cái (Quảng Ninh), tôi nghe mấy nữ nhà văn lao xao hỏi tiến sĩ - nhà văn Lê Thị Bích Hồng: “Đêm qua em viết à?” Bích Hồng ngạc nhiên: “Không đâu. Hôm qua đi đường mệt, em ngủ sớm đấy chứ”.

  • HOÀNG THỤY ANH

    Mùa hè treo rũ
    Trong cái hộp hai mươi mét vuông
    Ngổn ngang màu
    Ký tự chen chúc như bầy ngỗng mùa đông
    Ngày lên dây hết cỡ
                                Chật
    Dâng đầy lên ngực
    Chuông nhà thờ chặt khúc thời gian

     

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO

    Lâu nay, đọc thơ của trẻ em, tôi thường có cảm giác, hình như các em làm thơ dưới ngọn roi giáo huấn mà người lớn thường giơ lên đe nẹt trẻ con. Cho nên khi cầm trong tay tập thơ Cái chuông vú của bé Hoàng Dạ Thi “làm” từ 3 đến 5 tuổi, tôi không khỏi ngạc nhiên.

  • NGHIÊM LƯƠNG THÀNH

    Đọc xong Những đứa con rải rác trên đường, cuốn tiểu thuyết mới của nhà văn Hồ Anh Thái (Nxb. Trẻ 2014), thoạt đầu tôi có cảm giác trống vắng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Anh Cao Việt Dũng hỏi: anh có biết Lưu Quang Vũ không? Anh nghĩ gì về thơ Lưu Quang Vũ?

  • CHÂU THU HÀ

    Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng văn hóa của dân tộc Việt Nam. Tinh hoa và cốt cách của Người là nguồn cảm hứng vô tận cho văn nghệ sĩ, nhà báo.

  • DÃ LAN - NGUYỄN ĐỨC DỤ

    Cách đây mấy năm, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội có cho phát hành cuốn TỪ ĐIỂN VĂN HỌC (1983 - 1984). Sách gồm hai tập: tập I và tập II đầy cả ngàn trang, với sự cộng tác của nhiều tác giả.

  • MAI VĂN HOAN

    "Dư âm của biển" - theo tôi là cách gọi hợp nhất cho tập thơ mới này của Hải Bằng. Đặt "Trăng đợi trước thềm" chắc tác giả gửi gắm một điều gì đó mà tôi chưa hiểu được. Song với tôi "Trăng đợi trước thềm" có vẻ mơ mộng quá, tên gọi ấy chưa thể hiện được giai điệu cuộc đời của thơ anh.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Nguyễn Hiến Lê (1912 - 1984), hiệu là Lộc Đình, người làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, thị xã Sơn Tây, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc thủ đô Hà Nội, là nhà văn, nhà nghiên cứu, biên soạn, khảo cứu, về nhiều lĩnh vực như văn học, triết học, sử học, ngôn ngữ học, đạo đức học, chính trị học, kinh tế học, giáo dục học, gương danh nhân…

  • Chuyện gì xảy ra trong ngày 30/4/1975 tại Sài Gòn? Nhiều người đã viết về sự kiện này. Một lần nữa, kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái - nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn đã lên tiếng, cùng với sự trợ giúp của vợ và hai con - Nguyễn Hữu Thiên Nga và Nguyễn Hữu Thái Hòa.

  • Nhân dịp kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật cho ra mắt bạn đọc một số đầu sách về sự kiện lịch sử này, về lịch sử kháng chiến Nam Bộ và về cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ của toàn dân Việt Nam.

  • LÊ HUỲNH LÂM

    Không khỏi bất ngờ khi cầm trên tay tập “Hôm qua hôm nay & hôm sau” của Vũ Trọng Quang do Nxb Đà Nẵng ấn hành vào tháng 1 năm 2006. Vậy là đã 9 năm.

  • PHẠM XUÂN DŨNG

    Tôi và nhiều bạn bè sinh viên còn nhớ nguyên vẹn cảm giác lần đầu nghe bài thơ “Đêm qua” của nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đêm cư xá Huế lạnh và buồn đến nao lòng tê tái.