TRANG TUỆ
“Tuổi già và dòng chảy thời gian dạy ta mọi thứ”
(Sophocles)
Cháu giúp bà
Trong dòng chảy xã hội, những người cao tuổi, người già thường là nhóm đối tượng bị bỏ lại phía sau cả về xã hội tính lẫn tâm lý tính, cả về chủ quan lẫn khách quan. Đó gần như là điều khó tránh khỏi trong quá trình phát triển. Nhưng nó cũng đặt ra nhiều vấn đề trong việc nhìn nhận và ổn định cuộc sống cho người già để họ không bị lạc lõng.
Cuộc chuyển đổi từ xã hội nông nghiệp truyền thống sang xã hội công nghiệp hiện đại đã làm thay đổi căn bản cấu trúc xã hội và tác động mạnh mẽ đến nhiều thành phần, tầng lớp khác nhau trong xã hội. Người già, vốn là tầng lớp được trọng vọng trong xã hội nông nghiệp vì vốn kinh nghiệm sản xuất phong phú của mình về nền nông nghiệp truyền thống cũng như uy tín trong mạng lưới xã hội cổ truyền nay lại bị loại khỏi cuộc chơi khi mà sự phát triển hiện đại dựa vào tri thức khoa học chứ không phải kinh nghiệm. Từ ngôi làng nhỏ bé vốn chỉ quan hệ giao lưu với vài ba làng bên cạnh nay trở thành đầu mối của vô vàn những mối quan hệ phức tạp liên địa phương và thậm chí liên quốc gia. Từ kinh tế tự cấp tự túc, tự sản tự tiêu sang kinh tế thị trường với những mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận trở thành khẩu hiệu của nhiều người trong cuộc sống. Từ những cuộc chiến tranh chết chóc dưới làn mưa bom đạn của kẻ thù sang thời bình nhưng cũng đầy rẫy mâu thuẫn và không rõ kể thù là ai. Từ những công việc, địa vị suốt ngày bận rộn sang việc về nhà nghỉ ngơi không có việc gì để làm. Từ những gia đình nhiều thế hệ sinh sống với nhau sang những gia đình cá nhân, con cái không muốn sống chung với bố mẹ….
Nhìn chung, hàng loạt các làn sóng lớn như những trận cuồng phong ập vào cuộc sống và khiến người già trở nên nhỏ bé, thua thiệt và không theo kịp dòng chảy xã hội. Họ rơi vào sự lạc lõng. Lạc lõng thứ nhất là thấy mình không phù hợp với thời đại, với dòng chảy xã hội. Người già không tiếp cận được với những thành tựu cũng như trang thiết bị kỹ thuật. Họ khó tiếp cận cuộc sống hiện đại mà mạng xã hội trở thành một yếu tố quan trọng. Những phương tiện, trang thiết bị cuộc sống hiện đại cũng trở thành nhứng thách thức khiến họ phải vất vả mới tiếp cận được. Rồi những mối quan hệ xã hội mới đang phổ biến, những cuộc chơi mới trong cấu trúc xã hội càng làm cho người già lúng túng. Họ không thể quay về với xã hội cũ gắn liền với mình nhưng cũng khó để tiếp cận cuộc sống hiện đại với quá nhiều thứ phức tạp. Lạc lõng thứ hai là trong hệ thống giá trị mới mà sự phát triển đang mang lại. Người già đang nhìn vào sự phát triển với những ánh mắt hoài nghi và ái ngại khi truyền thống, phong tục tập quán vốn gắn với cuộc đời họ bị thay đổi nhanh chóng theo hướng mai một, mất mát đi nhiều. Bên cạnh đó là những giá trị mới hình thành mà họ thấy nhố nhăng. Nhưng họ không đủ sức can thiệp và cũng khó chấp nhận nên tự tìm cho mình những khoảng trống mới để sống. Thường thì họ tìm lại những ký ức, sống với những hoài niệm mà ở đó, một thời họ được làm chủ tất cả, được trận trọng và định hình lẫn định danh thế hệ của họ. Lạc lõng thứ ba là cảm giác bị bỏ rơi, bị loại khỏi cuộc chơi, khỏi dòng chảy xã hội đang ào ạt. Từ công việc bận rộn, có vị thế, tiếng nói được tôn trọng, bỗng dưng… thành người già, bị tách biệt ra nhiều hoạt động và họ cảm thấy mình bị bỏ rơi. Từ trong gia đình, nói con cháu phải nghe theo, nay lại thay đổi, con cháu tự do quyết định và chỉ tham khảo ý kiến của mình. Dần rồi chỉ còn lại các ông bà già sống với nhau trong sự cô đơn mà nhiều khi do chính họ tạo ra từ trong tâm cảm. Cô đơn đến từ cảm giác bị bỏ rơi. Trong nhiều những sự lạc lõng đó, nhiều người già đã không thích ứng được kịp thời và ảnh hưởng đến sức khoẻ. Có những người đã vượt qua và thích ứng với bối cảnh mới, nhưng cũng bị tổn thương không hề nhẹ. Làm sao để người già sống vui vẻ và không bị quá nhiều lạc lõng trong quá trình phát triển là câu chuyện mà mọi người trong xã hội đều phải quan tâm và nên góp sức cùng giải quyết bởi theo quy luật rồi ai cũng sẽ trở thành người già.
Về mặt lý thuyết, để người già sống hạnh phúc, không bị lạc lõng, không bị bỏ lại trong dòng chảy của xã hội thì cần đảm bảo sự liền mạch các cấu trúc xã hội, sự tiếp nối không ngừng của các hệ thống giá trị, sự phát triển hài hoà và bền vững của nền văn hoá. Điều đó làm cho người già gắn kết được với các thế hệ khác trong xã hội, đảm bảo được sự gắn kết không ngừng trong quá trình phát triển, đảm bảo được vị thế và sự chuyển giao vị thế xã hội một cách hài hoà nhất. Nhưng đó chỉ là lý thuyết, là mong muốn mà các nhà quản trị xã hội cũng như mọi con người hướng đến. Trên thực tế, sự phát triển, sự đổi mới luôn làm thay đổi các cấu trúc xã hội, các giá trị mới không ngừng xuất hiện và thay thế cho những giá trị cũ không còn phù hợp. Nên nhiều cấu trúc xã hội bị đảo lộn, nhiều giá trị xã hội bị đứt đoạn trong quá trình phát triển cũng là điều tất yếu.
Vậy nên, để làm cho cuộc sống người già bớt lạc lõng, cần nhìn nhận vào tâm thức, vào trách nhiệm cá nhân sẽ hiệu quả hơn. Trước hết, đối với những người già cần nhận thức về sự biến đổi xã hội, về sự phát triển một cách phù hợp để chuẩn bị tâm lý cho mình thật vững vàng trước những sự thay đổi. Biết tìm niềm vui trong tuổi già, trong những thứ mình có là một sự cần thiết đối với người già. Với các thế hệ trẻ thì cần nhìn nhận người già bằng tình yêu thương và đồng cảm. Người ta hay nói trẻ là tương lai, già là quá khứ. Nhưng tương lai và quá khứ cũng luôn thay đổi tuỳ theo quan niệm. Nếu đứng ở người trưởng thành mà nhìn nhận, thì trẻ em là quá khứ hôm qua của mình còn người già là tương lai ngày mai của mình. Ai cũng phải trải qua các giai đoạn đó. Vậy nên cần nhìn người già với sự trân trọng và yêu thương, bởi đó là ngày mai của mình. Còn rộng hơn, về mặt xã hội, cần có những chiến lược phát triển kinh tế xã hội và văn hoá một cách hài hoà hơn để phát huy được các giá trị văn hoá truyền thống, làm cho nền văn hoá được tiếp nối lẫn nhau, hệ thống giá trị cốt lõi được trao truyền qua các thế hệ. Làm như vậy để người già vẫn thấy mình có giá trị trong chuỗi luân hồi của cuộc đời, là chuỗi giá trị đúc kết, vốn thuộc đoạn cuối của dòng đời. Bên cạnh đó, cũng cần xem xét để phát triển những lĩnh vực kinh tế cần ít sức lao động nhưng cần đến sự kiên trì và nhiều kinh nghiệm, đặc biệt là các lĩnh vực thuộc thủ công nghiệp, giáo dục để tạo công ăn việc làm cho những người già. Không phải người già nào cũng yếu. Có rất nhiều người khi rời các cương vị công tác nhưng sức khoẻ còn tốt, nhiều người tuổi già nhưng sức lao động vẫn còn và vẫn có nhu cầu làm việc. Làm việc một mặt phát huy được trí tuệ và sự khéo léo, kinh nghiệm mà họ đã tích trữ nhiều năm, giúp họ tạo ra thu nhập để không phụ thuộc vào con cháu; Mặt khác cũng tạo ra tâm lý tích cực, mình còn sống có ích, được hoà nhập với cuộc sống lao động xã hội chứ không phải hết thời, bị bỏ rơi. Tạo ra công ăn việc làm cho người già có nhiều giá trị quan trọng, mà thực tế, ở Nhật Bản, người ta đã dựa vào việc này mà vừa góp phần tăng trưởng kinh tế, vừa “giải thiêng” được cuộc sống người già, giúp họ sống vui vẻ hơn và bớt lạc lõng hơn.
Nguồn: VHNA
Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...
Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.
1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.
Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.
Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).
*Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.
Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...
Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.
I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.
Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.
Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.
I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.
Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.
Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.
Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...
Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.
Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...
Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.