Ngôn từ nghệ thuật - Một nét phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân

15:50 04/06/2008
Một phương diện giúp khẳng định phong cách của bất cứ nhà văn nào, mà chúng ta không thể bỏ qua, đó là nghiên cứu yếu tố ngôn từ - chất liệu cơ bản để sáng tạo nên tác phẩm văn chương mà nhà văn đã vận dụng một cách nghệ thuật.

Đối với Nguyễn Tuân điều này lại cần đặc biệt quan tâm. Bởi lẽ chính nhà văn đã rất coi trọng việc sử dụng ngôn từ khi ngồi trước trang giấy trắng. Ông từng viết: "Chúng ta vẫn đắm đuối với nghề Iàm văn, ngày càng chuốt thêm văn tự, ngày càng làm óng tốt dẻo bền hơn lên nữa cái tiếng nói Việt cổ truyền của mình"[1-137]. Với ý thức cao như vậy, nên ông luôn "tự học" để trang bị cho mình vốn ngôn từ phong phú, giàu có, để sử dụng một cách thoải mái trong lúc hành nghề. Tố Hữu nhận xét Nguyễn Tuân là "người thợ kim hoàn của chữ" [2-196]. Lại Nguyên Ân khen: "con người ông, phong cách ông cũng đẹp một cách độc đáo như câu văn ông, loại câu văn có một không hai trong nghệ thuật ngôn từ tiếng Việt" [2-564]. Để có được những lời tán dương trên Nguyễn Tuân phải trải qua một đời "sẵn sàng chịu khổ hạnh" để góp phần vun tưới cho "cái cây tiếng nói Việt Nam" ngày càng nhiều cành, nhiều lá, nhiều hoa trái hơn, càng như một thứ cây nêu Tết kỳ diệu lung linh giọng gió trước sóng Thái Bình Dương" [2-125].
Nét độc đáo trước tiên trong ngôn từ nghệ thuật của văn chương Nguyễn Tuân, là ông biết khai thác tối ưu hiệu ứng âm thanh của tiếng Việt đơn âm tiết, nhưng lại đa thanh điệu, tạo cho câu văn giàu tính nhạc vang hưởng chất thơ. Những năm trước và sau thập kỷ sáu mươi, Nguyễn Tuân nhiều lần len lỏi giữa rừng Việt Bắc đại ngàn. Với một tình yêu rừng da diết, nhà văn như đang nghe giai điệu rừng dội từ vách đá, vọng xuống lũng sâu, cộng hưởng vào tâm hồn chan chứa thơ nhạc của người bộ hành - Nghệ sĩ Nguyễn Tuân. Ông đã dùng những nét chữ để ký âm khúc nhạc rừng độc đáo: "Lòng tôi sao toàn là những cảm xúc của một người bộ hành thời Trung cổ đặt chân vào giữa một vùng Cổ đại. Đầu toàn nhớ lại những âm từ thơ Đường. Cảnh nơi dọc đường cũng Tùy Tùy Đường Đường cũng Lý Lý Trần Trần như thế thôi. Nhịp sống, nét sống cũng phong phong trần trần mộng mộng đào đào nguyên nguyên vậy" [6-350]. Đọc đoạn văn sau, chưa cần tìm vào ý nghĩa, chỉ nghe âm hưởng vang lên, cũng đã gợi trong ta liên tưởng như những tiếng nức nở của Chiêu Quân cống Hồ đồng vọng trong tâm hồn đời chị Hoài như vại dưa muối đã hỏng: "Nương theo cái chiều tưởng tượng gây gây mùi hoài cựu, tôi nghĩ xa, tôi nghĩ gần, rồi tôi nhận thấy cả một đời chị Hoài cũng chỉ là một đời một nàng Hạnh Nguyên bước đi một bước là thêm một bước cống Hồ. Rặt cống Hồ. Cống Hồ. Toàn là nhịp cống Hồ. Toàn là cung Nam. Nó chìm hẳn xuống như những tiếng tơ rầu" [5-341].
Nguyễn Tuân rất có tài khai thác sức gợi về mặt ý nghĩa tạo ra bởi mặt âm thanh của ngôn từ. Ông từng bình rất hay về các từ láy đôi, láy ba; các cảm quan ý nghĩa với những từ mang phụ âm đầu KH trong bài "Tán về ngôn ngữ". Trong "Lửa sinh nhật", ông nhại tiếng súng các loại: "Này thì Bục - Này thì Toác", "Choét! Choét! ung!" ta nghe mà liên tưởng cái đồn Đại Bục, Đại Phác kiên cố của quân địch, trước sức công phá dữ dội của chiến sĩ cách mạng, đã nhanh chóng bục, toác, nhão nhoét, ung thối ra.Vạch mặt một tên thối tha ở phố Cống Thần, nhà văn đã gọi hắn với một cái tên mang hai phụ âm b, l nghe mà phát tởm. Qủa cách đặt tên cũng là một thủ pháp nghệ thuật quan trọng. Vũ Trọng Phụng có cái tài trào lộng loại người tha hóa về mặt đạo đức, băng hoại về lương tâm nhân phẩm, bằng cách đặt cho chúng những cái tên hoa mỹ như Văn Minh, Phó Đoan, Tuyết, TYPN,... Trong khi đó, Nguyễn Tuân lại châm biếm bọn "ưng khuyển phệ - loại yêng hùng bay" đắt giá tốn kém trong quá trình huấn luyện kỹ thuật tiến hành "chiến tranh sạch sẽ" bằng cách phiên âm tên chúng kiểu "Oét-mô-len" thành Vét mồ lên [3-l38]. Tên tù binh bay được Nguyễn Tuân phiên âm thành đồ "Lạc-xon" phế thải; Đức cha Tuyên UÁy biểu tượng cho đạo đức bác ái thành tên xúi giục "Xít - pen - men"; cơ quan ngôn luận lẽ ra phải nói sự thật rành rọt, lại líu ngọng thành "U Pê U Pi". Đây không hề là sự ngẫu nhiên, vì khi đề cập đến những vĩ nhân của lịch sử Mỹ như Washington, Lincoln, hay các văn thi sĩ đáng quý như Edgar Poe, Jack London, Hemingway nhà văn đã viết một thứ chữ tiếng Anh trang trọng. Hiện tượng này có mối liên hệ ảnh hưởng nào chăng giữa Nguyễn Tuân với Bác Hồ. Như khi Bác viết hai bài "Dốt như bò" và "Xa lăng xa lù" đăng báo Nhân Dân ngày 14 - 2 -1952 và 30 - 3 - 1952, châm biếm những tên thực dân Pháp là Tat-xi-nhi và Xa-lăng. Về tên Tat-xi-nhi, Bác viết: "Thế là Tat-xi-nhi đã bị bạn nó tát vào mồm":
Kết luận thói huênh hoang của tên Xa-lăng, Bác viết:
"Xa lăng xa lù
Càng nói càng ngu
Ta đánh mạnh đánh mãi
Giặc thất bại lu bù" [4-297]

Về mặt từ ngữ, Nguyễn Tuân đã thừa hưởng lớn phần "hương hỏa" "kết tinh bởi trăm nghìn công sức lao động của tổ tiên truyền lại". Vì vậy, với tấm lòng tri ân trân trọng, nhà văn có ý thức trách nhiệm làm thể nào để bồi bổ tiếng nói dân tộc phải "giàu thêm mãi về cả chữ dùng, cả cách nói của ngôn ngữ Việt " [7-163]. Mỗi khi cầm bút, ông trải cái vốn từ phong phú mà mình chiếm lĩnh ra để chọn lấy một từ chính xác trong sáng nhất, nhưng cũng ít người dùng nhất, đặt đúng vị trí trong câu văn. Người đọc khi gặp, lập tức phản xạ với cái vốn quen dùng của mình mà rung lên xúc cảm, khắc vào ký ức như biết thêm một từ thần, như nhớ thêm một câu thơ hay, một cách dùng độc đáo, mà học theo để nâng dần năng lực ngôn ngữ của mình. Nguyễn Tuân có những cách dùng từ "quái dị" khó quên như:
"ấậy là một người đàn bà, thứ đàn bà tồi. Tồi ở chỗ lõa lồ trong câu nói tiếng cười". Cũng người đàn bà ấy: "người cứ ngồi ỳ ra đấy để ám sát cái hiền lành của một chuyến xe ngựa rất nên thơ" [5-305].
- Cái người phu xe già vốn vẫn kéo đưa tôi xuống xóm hát và đang ghếch càng xe lên hè chở tôi ra ga, nở một nụ cười a tòng rất có tính cách buộc tội cho tôi, trước mặt vợ tôi đang ngần ngại. [5-215]
Đọc văn Nguyễn Tuân, chúng ta có thể tìm thấy vô số trường hợp ông vận dụng các biện pháp tu từ độc đáo, những liên tưởng hết sức bất ngờ như:
- Thời giá hoa đào ở ngân thị Hương Cảng mấy ngày gần đây đã bỏ xa thời giá hoa biết nói trong hàng viện và mọi phòng trà. [5-23]
Thầy giáo dạy tiếng Việt có thể dễ dàng tìm cho mình những ví dụ về các biện pháp tu từ ở trong văn chương Nguyễn Tuân, nhằm minh họa cho các tiết dạy một cách phong phú và tiết kiệm được thời gian như:
"Nhưng mà cả cái cầu bảy nhịp đó, một trăm bảy mươi tám thước khung sắt đó tám trăm chín mươi tư gỗ ván đó, nhưng mà cái cầu đó là của ai?... Tổ chức quốc tế nào hay là cơ quan nào trong nước? Hay là trối kệ nó đó như là một đứa con hoang thai của thời thế? Chao ôi, thấy thương quá là thương, cho bảy nhịp Hiền Lương cầu tuyến! Nó lù lù vô duyên như một con bù nhìn khung nan sắt đang quá đỗi tẽn tò trên khúc sông đệm" [6-382].
Về mặt cú pháp, câu văn của Nguyễn Tuân có cấu trúc trùng điệp, để khắc họa đậm nét tính cách của nhân vật và sự đa diện của hình tượng. Người đọc thường có những xung động thẩm mỹ thú vị, gợi liên tưởng đến nhiều tầng nghĩa khác nhau, qua sự mở rộng tối đa những vị ngữ, bổ ngữ...
Nói về thân phận hèn mọn của thầy Lý trong "Một vụ bắt rượu lậu", nhà văn viết: - "Nghĩ đến đấy, thầy Lý không dám giữ đầu mình cho thẳng thắn, chỉ muốn cúi mặt mình xuống đất, hết nhìn đôi ủng da tây của quan Phủ, đôi guốc kinh của ông Đề và đôi bàn chân lấm của mình. Thầy Lý lúc này là sự hóa thân của một sự sợ hãi" [5-10].
Thủ pháp kết hợp những từ ngữ cùng trường nghĩa vào trong câu, đoạn văn, có thể xem là sự vận dụng thành công của Nguyễn Tuân. Câu văn của ông "co duỗi" một cách linh hoạt. Có khi gợi cảm giác vón cục kết tinh lại qua những câu văn ngắn, khô như: "Một tiếng loa. Một tiếng trống. Ba tiếng chiêng", "Hết cả lã chã". Nhưng thường thì câu văn Nguyễn Tuân gợi cảm giác không gian đang mở rộng, thời gian được kéo dài, bởi những từ ngữ chỉ phương hướng, chiều kích gắn kết vào nhau bằng những từ chỉ thì thời gian. Đoạn văn sau cho ta cảm giác ấy "Dọc theo con đường ở Phù Yên đang rộng ra, đang dài thêm mãi ra và thẳng duỗi ra, cuộc sống lao động tập thể đang cất lên cơ man là mái nhà mới, những ngôi nhà gianh nhà nứa mới. Nhà mới mọc đến đâu thì cây rừng bị thu hẹp đến đấy" [6- 122].
Câu văn của Nguyễn Tuân đan chéo nhau các phương chiều của không - thời gian qua liên tưởng miên man của tác giả, như những thước phim điện ảnh, hội tụ nhiều mảng không gian, đồng hiện nhiều khoảnh khắc thời gian, tạo ra hình ảnh đối lập sinh động nói lên sự vận động phát triển của con người - đất nước Việt Nam, từ nô lệ nghèo đói, đau thương khổ nhục sang tự do, no đủ hạnh phúc. Nằm trên mỏ "Than Quỳnh Nhai" nhà văn nghĩ: "Tôi nằm đây là nằm trên những biến thiên biển xanh nương dâu, trên những xác rừng cổ đại nay khai ra đốt sáng miền Bắc kiến thiết tổ quốc trong đó mỏ châu Quỳnh Nhai có cái vinh quang được góp phần than lửa của mình" [6-287]. Đạp xe đi giữa lòng Hà Nội ngày sơ tán, hồn Nguyễn Tuân lại phiêu dạt vào Huế xưa, mà không khỏi bồi hồi về tình cha con sâu nặng của thời thơ ấu. Ông viết: "Giữa phố Huế của Hà Nội sơ tán, thấy dòng phố như một dòng sông Hương, và thấy xe đạp chậm của mình đang như một con đò trôi miết trên dòng. Chao ôi, quên sao được sáu nhịp cầu Thành Thái và quên sao được những tiếng súng giờ giấc của thành Huế thanh bình giả vờ thuở đó" [7-113].
Nói đến ngôn từ Nguyễn Tuân, không thể không nói đến tín hiệu đặc trưng của thể loại ký. Đó là tính khoa học chính xác nghiêm túc với tinh thần trách nhiệm cao của tác giả thể hiện trong trang viết. Những tên người, tên đất, con số, sự kiện của địa lý - lịch sử Việt được nhà văn tra cứu kỹ lưỡng trước khi định hình trong câu văn. Nguyễn Tuân cho rằng: "Tôi vẫn cho địa lý quan trọng hơn lịch sử. Khoa học của lịch sử kích thích tinh thần quốc tế và bồi dưỡng nhiều cho lòng yêu nước. Do có kiến thức lịch sử' mà tấm lòng càng gắn bó với đất nước. Những cái điều đó cũng dễ thành một ý niệm trừu tượng, nếu không có sự bổ túc của khoa địa lý. Muốn yêu đất nước tổ tiên mình cho thật đầy đủ, thì phải đi bằng hai chân cả lịch sử và địa lý. Muốn thật yêu một vùng nào, một tấm lòng chưa đủ, phải có đôi chân nữa. Không có sự phối hợp của địa lý; mà chỉ có toàn lịch sử thôi thì khác chi thấy bóng rồi mà chưa lần ra cho hết cái hình" [6-464]. Tư tưởng nghiêm túc này đã chỉ đạo ngòi bút của Nguyễn Tuân viết nên những trang ký chân thực, khách quan về sự kiện, sâu sắc về bình giá và đậm đà về tình cảm.
Điều cuối cùng, dựa vào phong cách chức năng của ngôn ngữ, chúng tôi thấy ngôn từ văn chương Nguyễn Tuân là hiện tượng đa phong cách. Nhà văn như nghệ sĩ xiếc ngôn từ. Ông nhại được giọng nhiều vùng miền khác nhau, huy động thích hợp thuật ngữ nhiều ngành khoa học, nghệ thuật khác phục vụ cho việc xây dựng hình tượng nghệ thuật văn chương và chuyển tải tư tưởng, tình cảm đến với bạn đọc, góp phần làm phong phú thêm ngôn ngữ văn chương xứng đáng là bậc thầy ngôn ngữ của văn đàn hiện đại Việt Nam.

NGUYỄN TỐNG
(nguồn: TCSH số 154 - 12 - 2001)

----------------------------------------------
1. Nguyễn Tuân - Chuyện Nghề, NXB Tác phẩm mới, 1986.
2.
Tôn Thảo Miên-Nguyễn Tuân về tác giả và tác phẩm, NXB Giáo dục, 1998.
3.
Nguyễn Tài Cẩn-Ngĩr pháp tiếng Việt, 'NXB Đại học THCN, 1981.
4. Tập nghiên cứu chọn lọc về thơ văn Hồ Chủ Tịch, NXB Giáo dục, 1978.
5,6,7. Tuyển tập Nguyễn Tuân, NXB khoa học Xã hội, l998
.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Trong lời Nhỏ to... cuối sách Thi nhân Việt   (1942), Hoài Thanh - Hoài Chân viết:  “Tôi đã đọc một vạn bài thơ và trong số ấy có non một vạn bài dở. Nếu làm xong quyển sách này, mà không chê chán vì thơ, ấy là điều tôi rất mong mỏi”.

  • Gần đây, đọc một vài truyện ngắn trên tạp chí Sông Hương, tôi vô cùng cảm động. Trước số phận của các nhân vật, tôi muốn nói lên những suy nghĩ của mình và chỉ mong được coi đây là lời trò chuyện của người được "nhận và cho":

  • Ông Eđuar Điujacđen là một nhà thơ có tài và có thể nói là được hâm mộ trong số các nhà thơ thuộc thế hệ già - người vẫn giữ được tình cảm và sự khâm phục cuồng nhiệt của lớp trẻ, đã mở đầu một cuộc thảo luận về thơ.

  • Việc mở rộng phong trào giải phóng tư tưởng trên văn đàn thời kỳ mới, lãnh vực phê bình và lý luận văn nghệ đã xuất hiện cục diện vô cùng sống động.

  • "Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động" (Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trường ĐHTH TP.HCM, 1995, trang 19).

  • Phê bình văn học là giải minh cho văn chương. Văn chương hay hoặc dở, giản đơn hay phức tạp, nó được thiết lập trên thi pháp này hay thi pháp khác, thể loại này hay thể loại khác, thời này hay thời khác v.v... đều phải được làm sáng tỏ bằng những lập luận khoa học chứ không phải bằng cảm tính của người phê bình.

  • LTS: Sau khi Sông Hương đăng bài “Khủng hoảng ngay trong nhận thức và niềm tin đi tìm lối thoát cuộc khủng hoảng văn học” của nhà văn Nguyễn Dương Côn, chúng tôi nhận được ý kiến “phản biện” của 2 nhà văn Phương Lựu và Trần Thanh Đạm.

  • LTS: Có nhiều cách hiểu về câu thơ trên. Y kiến của cụ Thanh Huy - Cử nhân Văn khoa Việt Hán, sinh 1916 tại Huế, cũng là một ý có thể tham khảo đối với những ai quan tâm Truyện Kiều, để hiểu thêm và đi đến kết luận về cách tính thước tấc của người xưa.
    SH

  • Từ thơ ca truyền thống đến Thơ mới là một sự đột phá vĩ đại trong quan điểm thẩm mỹ của thơ ca. Chính sự cách tân trong quan niệm về cái đẹp này đã làm một "cú hích" quan trọng cho tiến trình phát triển của thơ ca Việt . Nó đã giúp thơ ca dân tộc nhanh chóng phát triển theo con đường hiện đại hóa. Và từ đây, thơ ca Việt có thể hội nhập vào thơ ca nhân loại.

  • Trong truyền thống thơ ca Nhật Bản, thơ haiku giữ một vị trí rất quan trọng. Nó là một viên ngọc quý giá và là một phần tài sản tinh thần trong kho tàng văn học Nhật Bản.

  • (Trao đổi với nhà lý luận Nguyễn Dương Côn)

  • "Thượng đế dằn vặt tôi suốt đời" (Đôxtôiepxki)

  • Mười năm thơ thập thững vào kinh tế thị trường cũng là mười năm những nhà thơ Việt phải cõng Thơ leo núi.

  • Từ lâu, người ta đã nói đến cuộc tổng khủng hoảng của văn học trên quy mô toàn thế giới.

  • Bàn luận về những vấn đề văn học mới, phạm trù văn học mới, tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam ở thế kỷ 20, nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định giá trị và sự đóng góp của văn học hợp pháp, văn học cách mạng trong nửa đầu thế kỉ. Với cái nhìn bao quát và biện chứng theo dòng thời gian, chúng ta nhận rõ công lao góp phần mở đầu hiện đại hoá và phát triển văn học theo qui luật tiến hoá của lịch sử Việt của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

  • Khi sử dụng một khái niệm cơ bản, nhất là khái niệm cơ bản chưa được mọi người hiểu một cách thống nhất, người ta thường giới thuyết nó.

  • Tô Hoài, trong hơn 60 năm viết, thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Đây là kết quả sự hô ứng, sự hội nhập đến từ hai phía: phía chuẩn bị chủ quan của người viết và phía yêu cầu khách quan của công chúng, của cách mạng.

  • Sóng đôi (bài tỉ, sắp hàng ngang nhau) là phép tu từ cổ xưa trong đó các bộ phận giống nhau của câu được lặp lại trong câu hay đoạn văn, thơ, làm cho cấu trúc lời văn được chỉnh tề, rõ rệt, nhất quán, đồng thời do sự lặp lại mà tạo thành nhịp điệu mạnh mẽ, như thác nước từ trên cao đổ xuống, hình thành khí thế của lời văn lời thơ.

  • LTS: Trên Sông Hương số tháng 10 - 2007, chúng tôi đã giới thiệu về công trình “La littérature en péril” (Nền văn chương đang lâm nguy) củaTzvetan Todorov - nhà triết học, mỹ học và nhà lý luận văn học nổi tiếng của Pháp.