Trước hết, con người khác muôn loài ở ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ mà con người đã xây dựng nhiều nền văn minh trên trái đất này. Nhưng ngôn ngữ của mỗi dân tộc khác nhau. Điểm khác nhau cơ bản trong ngôn ngữ là ở cách dùng danh từ, tính từ và đại từ. Quả vậy, người Việt nói “áo trắng” nhưng người Tầu không nói vậy. Người Tầu nói “Bái Yfu” (Trắng y phục). Người Nga, ý, Mỹ, Anh, Pháp, Arập, Nhật, Hàn,… nói giống người Tầu hết. Họ đặt tính từ lên trước danh từ. Trong mối quan hệ đại từ và danh từ cũng có sự trái ngược tương tự: người Việt nói “Đất nước tôi”, người Pháp nói “Mon pays” (của tôi đất nước). Khi học ngoại ngữ chúng ta phải tuân theo ngữ pháp của ngôn ngữ đó và nhận thấy cái sự ngược đời ấy là bình thường. Nhưng khi nhìn nhận ngôn ngữ theo vật lý học hoặc/và văn hoá học ta có thể phân tích sự ngược đời ấy dưới các góc độ khác.
Vật lý học là môn nghiên cứu sự vận động có hướng của các vật thể trong không thời gian. Còn văn hoá học là môn nghiên cứu sự vận động của các khái niệm trong tâm hồn con người. Do vậy, có thể kết hợp hai môn này trong việc phân tích thứ tự danh từ, đại từ, tính từ trong các ngôn ngữ.
Dân Việt khi nói bao giờ cũng đặt danh từ lên trước, rồi mới đến tính từ. Người Việt mình nói “trời xanh, mây trắng, cờ hồng”, chứ không nói “Blue sky, white cloud, red flag” (xanh trời, trắng mây, đỏ cờ). Dân ta, ngàn năm bị lệ thuộc Tầu, lại gần ngàn năm dùng chữ Tầu trong thi cử và giao dịch hành chính vẫn không nói theo người Tầu và các dân tộc khác. Cách nói đó có sức sống mãnh liệt và là một đặc trưng cơ bản nhất của ngôn ngữ Việt. Có lẽ cụ Phạm Quỳnh đã nhìn thấy cái sức sống mãnh liệt của ngôn ngữ Việt, nên ngay trong những năm dài mất nước cụ đã viết “Truyện Kiều còn, tiếng Việt còn, tiếng Việt còn, nước Nam còn”.
Vậy tại sao dân Việt mình khi nói lại đặt danh từ lên trước như vậy? Ngôn ngữ được hình thành gắn liền với thông tin về hình ảnh, âm thanh, mầu sắc... Nếu ta trông thấy một cái gì đó dài dài, hơi tròn, lại rỗng ở giữa, ta bảo đó là cái ống. Danh từ “ống” được hình thành và lưu trữ trong óc với những thông tin về hình ảnh và cấu trúc. Nếu ta nhìn thấy cái gì đó có cấu trúc gần như thế, ta sẽ bảo đó là cái “ống” đã. Sau rồi ta mới tả các đặc trưng thực tại của nó về mầu sắc, về chất liệu. Cuối cùng ta có một cụm từ “cái ống xanh bằng nhựa”. Còn người nước khác, khi nhìn thấy cái ống sẽ làm văn tả cảnh thực tại. Họ nói mầu sắc, rồi cấu trúc, sau chất liệu thành ra cụm từ “a blue tube by plastic”.
Vậy cách nói của tiếng Việt là so sánh trước, miêu tả sau. Người Việt so sánh vật thể thực tại với những khái niệm có sẵn trong óc, sau đó bổ sung thêm các tính từ mô tả tính chất, trạng thái của đối tượng. Trong khi đó, dân Tầu, Nga, Mỹ, Pháp, Nhật,…sẽ mô tả tính chất, trạng thái của đối tượng trước, rồi dần dần mới lột tả vật thể bằng một danh từ. Do đó, đối với các ngôn ngữ khác, danh từ để sau (trong đa số trường hợp). Nhưng để so sánh thì khái niệm phải có sẵn trong óc. Do đó, trong quá trình hình thành các danh từ, khi học nói, học chuyên môn, người Việt đã xây dựng các khái niệm, rồi lưu trữ vào bộ óc. Đó là cách tư duy “tổng thể trước, chi tiết sau”. (Danh từ là từ để chỉ tổng thể của khái niệm. Tính từ là từ để chỉ trạng thái tính chất, tức là các chi tiết). Mặt tích cực của tư duy theo phong cách “tổng thể trước, chi tiết sau” là coi trọng cái thuộc tính chung, coi trong cấu trúc tổng thể. Nhưng mặt tiêu cực của phong cách tư duy đó là định kiến, bảo thủ. Ví dụ, khi nói đến cái bàn, mà không thêm tính từ mô tả bổ sung, thì phần lớn người Việt sẽ hình dung về một vật thể có 4 chân, bằng gỗ, phía trên có một hình chữ nhật phẳng. Họ ít khi nghĩ ngay đến cái gì ba chân, có mặt hình ô-van. Nhưng khi nói theo ngôn ngữ Mỹ, ta phải đặt tính từ ô-van và số chân lên trước rồi mới đến danh từ “cái bàn” ở vị trí cuối cùng. Như vậy ít khi hiểu sai ý của người đối thoại.
Từ những phân tích ở trên, ta thấy ngôn ngữ ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách tư duy. Nó là công cụ quan trọng nhất để tư duy. Có hai cách tư duy: đặt tổng thể lên trước hoặc là đặt chi tiết lên trước.
Nếu tư duy theo phong cách đặt chi tiết lên trước thì nhanh chóng tìm ra các thành tố, nhưng lâu đi đến khái niệm chung. Ngược lại, theo phong cách tư duy đặt tổng thể lên trước thì chóng tìm đến khái niệm, nhưng khái niệm lại có thể bị hiểu không nhất quán trong các bộ óc cá thể, như trường hợp thầy bói xem voi. Mỗi lối tư duy đều có điểm mạnh điểm yếu. Nhưng lối tư duy tổng thể khái niệm đặt trước, đôi lúc có thể đạt hiệu quả tập trung cực mạnh. Ví dụ, hồi thế kỷ XIII, nếu bạn trông thấy trên cánh tay một thanh niên có chữ “sát thát”, thì chắc chắn bạn biết ngay đó là một chiến binh sẵn sàng hy sinh “vợ đẹp, con khôn, giọng hát hay, bầu rượu béo” quyết tâm đánh giặc Nguyên Mông. Hoặc hồi thế kỷ XX đang đi trong rừng Trường Sơn mà gặp một cánh mũ “tai bèo” bạn cũng nghĩ như vậy. Mở rộng ra, cách nói, cách sử dụng ngôn ngữ theo kiểu “danh từ lên trước” là cách tư duy theo biểu tượng. Dân Việt rất giỏi tư duy theo biểu tượng, bởi vì ngàn đời nay, khi nói chúng ta đều đặt danh từ lên trước tính từ. Đó là di sản quý báu nhất của tổ tiên Lạc Hồng. Nếu xem ngôn ngữ là một cách sinh hoạt văn hoá, thì lối sinh hoạt văn hoá “danh từ trước tính từ” là một đặc điểm văn hoá qui báu nhất của dân tộc Việt Nam. Tất nhiên, một số dân tộc khác cũng có lối sinh hoạt ấy. Ví dụ
Ngày nay, để phát huy di sản này chúng ta cần có biểu tượng cho mỗi công ty, xí nghiệp, mỗi trường học, mỗi tỉnh thành. Ví dụ, cán bộ và chiến sỹ công ty Viễn thông quân đội Viettel có câu “Viettel, hãy nói theo cách của bạn”. Đó là một biểu tượng ngôn ngữ. Biểu tượng này, gắn liền với logo hai cánh cung đỏ xanh nằm ngang đã tạo nên sức mạnh hành động chung của Viettel. Sức mạnh ngôn ngữ (hay đúng hơn sức mạnh văn hoá) ấy đã biến Viettel từ một công ty điện thoại nhỏ thành một tập đoàn viễn thông hùng mạnh trong vài ba năm.
Hiện nay, nhiệm vụ chính của nhân dân ta là chung sức xây dựng một xã hội phồn vinh và công bằng. Cần phải tạo ra biểu tượng ngôn ngữ, hay tạo ra khái niệm và danh từ cho công cuộc ấy. Sao cho mỗi khi nói ra mọi người cùng hiểu rõ, hiểu đúng toàn bộ nội dung của quá trình hành động chung. Biểu tượng ngôn ngữ ấy sẽ chảy trong huyết mạch Lạc Hồng và chẳng mấy dân ta, nước ta sẽ tiến lên đài vinh quang, sánh vai với các cường quốc như lời tiên đoán của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thu San Nguyễn Thế Hùng ( hoinhavanvietnam.vn) |
NGUYỄN THỊ TUYẾT
A work of art was a form expressive of human feeling,
Created for our aesthetic perception through sense or imagination.
- S. Langer(1)
I paint objects as I think them, not as I see them.
- Pablo Picasso(2)
NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG
Cách đây một thời gian có hai phóng viên báo Sông Hương đến gặp tôi, đó là hai người Huế. Vì thế tôi có ngay những tình cảm rất đẹp, tình đồng hương. Thứ nữa, tôi thầm nghĩ: Chắc là hai phóng viên này muốn trao đổi với mình về đề tài vô thức đây! Và quả thực như thế.
YẾN THANH
Bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo viết ngày 28/8/1945 tại 48 Hàng Ngang và đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một văn bản chính trị quan trọng bậc nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại.
NGUYỄN THÁI HOÀNG
Đi từ triết học đến văn học, quan niệm về hiện tồn phi lí trở thành cảm thức phổ biến của con người hiện đại trước tình thế tồn tại chông chênh, mù mờ bất khả giải.
PHẠM PHÚ PHONG
Nhìn lại đội ngũ những người viết phê bình văn học trong cả nước ngày càng thưa vắng, thì ở các địa phương miền Trung càng thưa vắng hơn, đến mức có khi không tìm đâu ra chân dung một nhà phê bình thực thụ, đằng sau các bài điểm sách, đọc sách trên các báo.
NGUYỄN ĐĂNG MẠNH
Hiện nay trong giới văn học đang diễn ra nhiều cuộc tranh luận sôi nổi (chỉ được phản ánh phần nào trên báo chí). Những cuộc tranh luận này càng sáp vào việc chuẩn bị cho Đại hội Nhà văn lần thứ 4, càng trở nên gay gắt hơn và người ta càng thấy rõ hơn những gì ẩn đằng sau những ý kiến đối lập.
LỮ PHƯƠNG
Khi theo dõi những cuộc thảo luận về mối tương quan giữa chính trị và văn nghệ trên báo chí nước ta sau thời kỳ "cửa đã mở", tôi gặp một bài đáng chú ý đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 7, 1988 ký tên Lê Xuân Vũ: Quan hệ giữa văn nghệ và chính trị không phải là quan hệ giữa hai "bá quyền" trong xã hội.
LẠI NGUYÊN ÂN
Tạp chí Cộng sản, số 11-1988 có đăng bài “Quan hệ văn nghệ và chính trị không phải là quan hệ giữa hai "bá quyền" trong xã hội” của Lê Xuân Vũ.
PHẠM TẤN XUÂN CAO
Trong một dạng thức của lời nói, các đối tượng không có màu sắc.
Wittgenstein[1]
NGUYỄN THỊ TỊNH THY
1. Từ thập niên 90 của thế kỉ XX, nhà văn Trần Duy Phiên đã sáng tác nhiều tác phẩm mang đậm tư tưởng sinh thái mà tiêu biểu là bộ ba truyện ngắn viết về côn trùng Kiến và người (KVN), Mối và người (MVN), Nhện và người (NVN).
TRẦN NGỌC HỒ TRƯỜNG
Khảo sát không gian Truyện Kiều, các nhà nghiên cứu đã khảo sát các không gian nhà chứa, tu hành, không gian họ Hoạn danh gia(1)... cũng như các tính chất, đặc điểm của các không gian trong tác phẩm như không gian lưu lạc, không gian giam hãm, không gian tha hương(2)... Điều này có nghĩa là các không gian được khảo sát là các không gian hiện thực, có thể quan sát được bằng giác quan.
LÊ QUANG THÁI
Suy niệm ấy được viết bằng chữ Hán, khắc lên bia đá đầu tiên đề danh tiến sĩ của nước Đại Việt và được dựng lập ở khuôn viên nhà Thái học thuộc di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám từ năm Giáp Thìn, 1484, niên hiệu Hồng Đức thứ 15. Một sự dụng tâm về mặt lịch học và pháp số lung linh như đã hiển hiện long ẩn có giá trị biểu trưng.
ĐÌNH VĂN TUẤN
Theo truyền thuyết và sử sách, thủy tổ người Việt Nam là Lạc Long Quân, có tên húy là Sùng Lãm, là con trai của Kinh Dương Vương và Long nữ (con gái của Động Đình Quân).
NGUYỄN THÀNH TRUNG
Tóm tắt: Nhà báo – nhà văn Dương Thị Xuân Quý sinh ngày 19 tháng 4 năm 1941, hy sinh ngày 8 tháng 3 năm 1969. Bà nguyên là phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam từ năm 1961 đến năm 1968.
PHAN NGỌC
Giàu (,) ba bữa, khó (,) hai niêu,
Yên phận (,) thì hơn hết mọi điều
Khát, uống chè mai: hơi (,) ngọt ngọt;
Sốt, kề hiên nguyệt: gió (,) hiu hiu.
Giang sơn tám bức, là tranh vẽ;
Phong cảnh tứ mùa, ấy gấm thêu
Thong thả: hôm (,) khuya nằm, sớm thức,
Muôn vàn đã đội đức trời Nghiêu.
HOÀNG NGỌC HIẾN
(Nhân đọc mấy truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp)
LGT: Cuộc thi viết cảm nhận tác phẩm văn học Hàn Quốc (lần thứ IX - năm 2014) do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Viện Dịch thuật văn học Hàn Quốc tổ chức. Cô sinh viên năm thứ tư Hồ Tiểu Ngọc được khoa Ngữ văn, trường Đại học khoa học, Đại học Huế cử tham gia, đã vinh dự nhận giải Nhì qua bài phê bình tập truyện ngắn Điều gì xảy ra, ai biết… của nhà văn Hàn Quốc Kim Young Ha, dịch giả Hiền Nguyễn.
BBT Sông Hương vui mừng giới thiệu đến bạn đọc bài viết đạt giải cao này.