Ngộ nhận của một thời

10:12 22/04/2010
ĐỖ NGỌC YÊN(Nhân đọc TRONG CĂN NHÀ SÀN BÉ NHỎ)(*)

Nhà sàn Tây Nguyên - Ảnh: rfviet.com

“Trong căn nhà sàn bé nhỏ” là tập truyện viết về Tây Nguyên của nhà báo Lê Thấu, nguyên là phóng viên báo Nhân Dân thường trú tại Tây Nguyên, người đã có gần 10 năm lăn lộn và gắn bó với mảnh đất này kể từ ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng cho đến trước thời kỳ đổi mới.

Ý tưởng chính của tác giả xoay quanh quá trình xây dựng cuộc sống mới sau giải phóng của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trên mảnh đất giàu tiềm năng này nhưng chưa được khai phá. Sự khắc nghiệt về điều kiện tự nhiên của miền Trung và Tây Nguyên như lũ lụt, hạn hán và đặc biệt nguồn nước luôn là vấn đề trăn trở của hàng bao thế hệ người dân sống nơi đây. Bên cạnh đó nghèo đói, bệnh tật luôn rình rập họ, sự hoạt động ráo riết của Phun rô cấu kết với bọn phản động hòng chống phá cách mạng sau ngày miền Nam giải phóng là một thực tế nhức nhối thời bấy giờ. Nhưng cái khó lớn nhất lại chính là nguồn sinh lực mới khởi xuất từ vấn đề con người.

Hầu hết những cán bộ cơ sở từ cấp huyện, cấp xã đến các thôn bản, buôn làng ở đây đều là những người tham gia kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ, bây giờ lại xa quê vào đây giúp Tây Nguyên xây dựng chủ nghĩa xã hội (tr. 146), như bí thư Nguyễn trong Người đi tìm nguồn nước đã từng thú nhận. Không có trình độ lý luận, cũng không được đào tạo về quản lý và điều hành hoạt động kinh tế là nguyên nhân chính dẫn đến những nhận thức sai lầm, ngộ nhận về chủ nghĩa xã hội là điều khó tránh khỏi.

Bí thư huyện ủy Tính trong Dòng sông thời gian, đích thân đánh chiếc xe Commangca xuống tận xã Tân Lập để kiểm tra bí thư Đảng bộ chỉ vì nghe dư luận đồn rằng ông Minh sắp trở thành tư sản: Tôi nghe người ta bảo bi thư xã Tân Lập đang đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, đang giàu lên như một tên tư sản mới, một tên tư sản có đầu óc kinh doanh, bóc lột vợ con đến tận xương tận tủy (tr 133- 134). Thực chất ông Minh chỉ mới học được cách làm kinh tế theo mô hình V. A. C từ kinh nghiệm của miền Bắc vài năm nay, nên có nhà ngói, cây mít, vườn rau, ao cá, kinh tế gia đình bắt đầu có miếng ăn miếng để, chứ thực ra ông Minh không phải là người có đầu óc kinh doanh kiểu tư bản. Làm giàu âu cũng là cách để ông Minh xóa đi nhận thức của người dân nơi đây về hình ảnh của người cộng sản như những thầy tu theo chủ nghĩa khổ hạnh. Họ cho rằng: những người cộng sản chúng ta thích sống nghèo khổ và chiến đấu để mọi người cùng sống nghèo khổ như mình (tr 138). Qủa là một sự thật rất đau lòng, nhưng không thể phủ nhận được, khi những người cán bộ cơ sở Đảng và chính quyền nơi đây đã áp dụng một cách máy móc chính sách cộng sản thời chiến vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế thời bình. Trớ trêu thay, cũng chính vì lẽ đó mà ông bị quy là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, ngược với đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng (!?). Tuy nhiên ông Tính cũng đã có lúc nhận ra, dù chỉ là trên lý thuyết và có tính nhất thời, nhưng cũng rất hiếm hoi: Nhiều lúc do dốt nát, do ngộ nhận, chúng ta đã trở thành tù binh của những tư tưởng tiểu tư sản cuồng nhiệt, tiêu diệt ngay cái Tôi, chỉ để lại cái Ta tồn tại. Muôn năm cái chung, làm chung, ăn chung, chia đều nhất loạt. Đả đảo tất cả những cái riêng (tr 137).

Cuộc tranh luận giằng co và gay gắt, quyết liệt giữa ông Tính và ông Minh kéo dài hằng giờ đồng hồ, thực chất đấy là cuộc đấu tranh tư tưởng của những người có quá nhiều công trạng trong kháng chiến, nhưng lại có quá ít tri thức lý luận, phương pháp điều hành và quản lý kinh tế, dẫn đến việc nhận thức sai về bản chất của chủ nghĩa xã hội

Ngay cả đến phó tiến sỹ Tuấn trong Mặt trời xanh lá cây, là người có học hành, bằng cấp hẳn hoi lại là trưởng ty Thủy lợi cũng nghĩ đôi khi không chờ thông rồi mới làm, mà cứ làm đi rồi sẽ thông (tr 35). Rõ ràng cách nghĩ và cách làm kinh tế như vậy còn mang nặng tư duy mệnh lệnh theo kiểu thời chiến. Cấp dưới chỉ biết chấp hành, làm theo mệnh lệnh của cấp trên bất chấp đúng sai, lãi lỗ về kinh tế, cứ làm, làm bằng bất cứ giá nào, thì làm sao trách cứ được những người như ông huyện ủy viên Ma Gầm trong Mặt trời xanh lá cây. Ông chỉ là một cán bộ lãnh đạo chuyên môn không biết, muốn quyết định điều gì cứ phải quay trái, quay phải, hoặc quay đằng sau để hỏi những cố vấn. Có khi nghe chuyên môn trình bày vẫn chưa hiểu nhưng chẳng lẽ không quyết định thì sợ giảm uy tín của người phụ trách. Thôi thì nhìn vào mắt kẻ giúp việc của mình, chăm chú nghe giọng nói của hắn mà định xem mức độ gật hay lắc, ký ngay hay bảo còn cần nghiên cứu thêm, tươi cười khen ngợi hay nhắc nhở (tr 41). Một người nhận thức sai lầm, ngộ nhận và đi ngược lại đường lối, chủ trương phát triển kinh tế, tiến quân vào mặt trận khoa học và giáo dục của Đảng như ông, nhưng lại luôn tưởng rằng mình là người trung thành nhất với lý tưởng của Đảng và càng ra sức bảo vệ nó như chính là bảo vệ Đảng thì càng làm cho dân mất lòng tin đối với Đảng. Ma Gầm thản nhiên bày tỏ quan niệm hết sức kỳ quặc của mình với Quang, một kỹ sư trẻ vừa mới vào Tây Nguyên công tác: Phàm con người ta cứ học đến lớp bảy là tiểu tư sản hóa... Là cái anh trí thức chúa hay chao đảo, ngả nghiêng. Có giác ngộ mấy, đi theo cách mạng mấy, gặp khó khăn, hy sinh, vẫn cứ lòi cái đuôi trí thức tiểu tư sản ra. Những anh trí thức có quyền, có địa vị lại càng dễ chao đảo ngả nghiêng, lúc tả, lúc hữu, đặc biệt là hay ngả sang hữu không kiên trì lập trường như anh vô sản... Phàm khi đã học tới lớp bảy là con người ta biến chất đi rồi. tiểu tư sản hóa đi rồi (tr 47). Những người cán bộ chủ chốt ở cơ sở như ông Ma Gầm có công bao nhiêu trong những năm tháng đánh giặc thì cũng có tội bấy nhiêu trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế. Thực chất họ đang làm suy yếu sức mạnh lãnh đạo của Đảng ở cơ sở mà không hay biết. Tiếc thay họ lại chẳng bao giờ dám tự nhận mình là dốt, là sai và từ bỏ chiếc ghế quyền lực của mình cho kẻ khác, thậm chí còn cố tình chia nhau nắm các chức vụ, người thì kiêm bốn, năm chức trưởng, kẻ ít cũng đôi ba ngành quan trọng.(tr 44)

Thông thường sau chiến tranh, những người vừa may mắn được rút chân ra khỏi cuộc chiến luôn cao hứng vỗ ngực, tự hào về những chiến công trong chiến đấu của mình như ông Ma Gầm là rất phổ biến: Kẻ thù như thằng Mỹ ta còn đánh bại thì ở trên đời này không việc gì không làm được, không đỉnh cao nào không chiếm lĩnh được, không khó khăn nào không vượt qua được...(tr 44). Họ là những người thích sống trong những hào quang của quá khứ hào hùng, mà không biết rằng công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế hôm nay cũng đầy rẫy những gian nan, vất vả. Nó có những quy luật riêng và có lúc, có nơi, có những mặt cũng khắc nghiệt không kém gì trong chiến tranh, và nếu phạm sai lầm có khi cũng phải trả cả mạng sống.

Đó là trường hợp ông Mười, bí thư chi bộ xóm 13 xã kinh tế mới Tân Lập khi trao đổi với ông Tín trong truyện Xóm núi đã tự tin đến mức mù quáng: Ngày đánh Pháp anh không lạ gì. Đánh Mỹ cũng vậy.Phải lấy tinh thần gang thép ra chọi lại với những gian khổ, ác liệt, hy sinh chồng chất. Kinh nghiệm ấy giúp ta trụ lại nơi đây và thắng kẻ địch mạnh hơn ta gấp bội. Cũng chính với kinh nghiệm ấy, chúng ta sử dụng vào thời gian khôi phục và phát triển kinh tế từ sau ngày giải phóng (tr 210)

Sự ấu trĩ về nhận thức là nguồn cội dẫn đến cách làm nóng vội., Chỉ vì muốn tiến nhanh lên nông trường quốc doanh, làm chung, ăn chung hết, muốn tỏ cho các người biết thanh niên Ê đê không thua ai trong đánh giặc, không thua ai trong xây dựng chủ nghĩa xã hội (tr 94- 95), nên những người cán bộ cơ sở ở Tây Nguyên thời bấy giờ như ông Tính, Ông Ma Gầm, ông Mười đã gây nên những hậu quả vô cùng to lớn. Thậm tệ hơn chính họ là người đi đầu trong việc triệt phá, làm cạn kiệt rừng đầu nguồn, hủy hoại môi sinh. Có thể nói nguyên nhân chính gây nên cho các tỉnh miền Trung nhiều trận lũ lớn thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng trong những năm vừa qua là sự trả thù của tự nhiên đối với sự xuẩn ngốc của con người và là bài học nhỡn tiền không cho phép bất cứ ai có thể thờ ơ, đặc biệt là đối với những cán bộ quản lý ở cơ sở. Vậy mà chính họ không ai nhận thức được điều đó. Mai trong truyện Ở nơi buồn muôn thưở, một sinh viên tốt nghiệp ngành trồng rừng ở Đức vừa về nước đã nhận ra và cảnh tỉnh, tuy là quá muộn, nhưng dù sao cũng còn hơn: Các anh đề nghị chặt 300 héc ta rừng khộp để trồng sắn với lý do duy nhất lương thực là mặt trận hàng đầu hiện nay. Cái phương án làm ra lương thực bằng bất cứ giá nào ấy cổ lỗ và không kinh tế. Chẳng khác gì sau ngày giải phóng người ta chặt, đốt hàng trăm hecta cà phê để trồng khoai lang và trồng lúa rẫy... các anh chặt phá rừng mãi rồi mà không biết ghê tay ư? (tr 77- 78). Và người bạn của Mai đã từng sống nhiều năm ở Tây Nguyên xác nhận: Ở ta phá rừng quá thể. Thằng Mỹ rải hóa chất độc, bọn tư sản khai thác gỗ bừa bãi, tệ du canh đốt rừng làm nương rẫy, nạn cháy rừng, rồi đến lượt chúng ta (tr 79). Tiếc rằng những người như Mai lại không có bất kỳ một chút quyền lực nào có thể kéo lùi được cỗ máy nóng ran vì sự nhiệt tình bốc lửa trong đầu những kẻ vận hành cỗ máy đó đang lao thẳng xuống vực thẳm của sự phá hoại mà không hay biết. Bởi vì những người lính vừa bước ra khỏi cuộc chiến đã lao ngay vào mặt trận kinh tế như những kẻ mộng du suốt ngày treo mình trên những hào quang của quá khứ.

Đấy là một sai lầm hết sức tai hại của những người cộng sản thời chiến khi bắt tay vào xây dựng kinh tế thời bình, giống như những người cộng sản Bônsêvích Nga đầu những năm 20 của thế kỷ, khi cuộc Cách mạng Tháng Mười vĩ đại do Đảng Cộng sản khởi xướng lãnh đạo vừa mới thành công, thì ngay lập tức họ đã mắc phải những sai lầm mà V. Lê Nin đã chỉ ra rằng Sự nhiệt tình ở những kẻ ngu dốt chỉ là phá hoại. Có thể coi đó là một căn bệnh cố hữu của những người thiếu tri thức nhưng lại thừa lòng nhiệt tình và quyết tâm.

Kỳ thị với tri thức như huyện ủy viên Ma Gầm và chủ nghĩa tình cảm, tính cục bộ bản vị địa phương như ông Chủ tịch xã, một cán bộ ở R về trong Xóm núi cũng là những nhược điểm khá phổ biến lớp người như họ. Ông tin cậy và dìu dắt Hoàng, một thanh niêm mới lớn bỏ học từ miền xuôi lên xây dựng kinh tế mới, với ước mong xóa đi những mặc cảm về ông bố chiêu hồi bằng việc đem hết nhiệt tình về sức lực của tuổi trẻ ra để chặt phá rừng, làm kinh tế. Ông Chủ tịch xã thì nghiệm rằng ở dưới xuôi nhà Hoàng chỉ ở cách nhà ông có một con sông nhỏ, vì thế Hoàng vừa là người đồng hương duy nhất của ông, vừa là chỗ để ông chuốc bầu tâm sự, hơn là để bàn bạc công việc làm ăn kinh tế. Hoàng buộc phải trở thành cánh tay đắc lực và là người thừa hành những ý nghĩ sai lầm về một mô hình kinh tế chủ nghĩa xã hội với mục tiêu là làm chung, ăn chung và chia đều cho tất cả.

Chỗ dựa duy nhất về lý luận chủ nghĩa xã hội của lớp người kế cận như Hoàng là những bí thư huyện ủy Tính, ông Mười, Chủ tịch xã... Họ đều là những người gần sáu mươi tuổi, chữ nghĩa không nhiều, tài sản để lại cho con chẳng có gì ngoài kinh nghiệm sống và lòng thiện (tr 187). Điều đó phải chăng là một trong những nguyên nhân chủ quan dễn đến cái vòng "Kim cô" của sự đói nghèo và một nền kinh tế bao cấp thời chiến kéo dài hơn một thập kỷ (từ 1975 - 1986) mới có thể thoát ra được (!?).

Y Đoai, một thanh niên người dân tộc có nước da ngăm đen, đôi mắt to và sáng, khỏe như vâm trong truyện Trong căn nhà sàn bé nhỏ, là người luôn: mê săn hơn mê gái... Từ lúc quyết định tổ chức một cuộc săn bắn ra trò, đầu óc Y Đoai không thể nghĩ ra một điều gì khác (tr 126). Vậy mà trước ba quân thiên hạ anh ta cũng thuyết giáo về chủ nghĩa xã hội cứ như nói về cái chà gạc đang cầm trên tay mình: Tôi nói vắn tắt vậy đấy, các đồng chí đã hiểu chủ nghĩa xã hội chưa? (tr 93). Bà con trong buôn không những không ưa gì cái hợp tác xã làm chung ăn chung của anh, mà đại bộ phận đều cho rằng cái cách mạng làm chung, ăn chung mà Y Đoai cố nhồi nhét cho cánh phụ nữ sao mà khó nuốt thế (tr 97)

Có thể nói từ bí thư huyện ủy Tính, huyện ủy viên Ma Gầm cho đến bí thứ Nguyễn, rồi ông Chủ tịch xã Tân Lập... tất cả họ đều chỉ biết và thích muôn năm mãi ca vang bài ca chiến thắng. Còn chủ nghĩa xã hội dưới con mặt họ chẳng qua chỉ là sự cộng sinh giữa những kinh nghiệm cá nhân và những tấm huân chương thời đánh giặc của các thế hệ cha anh đi trước với sức lực, lòng nhiệt tình và quyết tâm của tuổi trẻ hôm nay vào để chặt phá rừng trồng ngô tỉa bắp và cùng lắm là trồng lúa nước, chỉ vì lý do duy nhất lương thực là mặt trận hằng đầu (!?) (tr 77)

Trong tình hình văn học hiện nay không ít người thích săn lùng những đề tài khác lạ, khai thác những tình tiết ly kỳ để câu khách, thì TRONG CĂN NHÀ SÀN BÉ NHỎ của Lê Thấu lại đặt ra và giải quyết một vấn đề tưởng chừng như đã quá quen thuộc, nhưng hiện nay vẫn là một vấn đề thời sự nóng bỏng không chỉ đối với nhận thức lý luận mà còn là phương thức điều hành và quản lý kinh tế hiện nay của những cán bộ cơ sở. Vì thế tập sách trở nên đáng quý và trân trọng biết bao.

5/ 2/ 2000
Đ.N.Y
(137-07-00)


----------------------------------------------
(*) Tập truyện của Lê Thấu, NXB Thanh niên - 2000




Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.

  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).