Nghĩa lý và cội nguồn 2 câu thơ: “VĂN NHƯ SIÊU QUÁT VÔ TIỀN HÁN/ THI ĐÁO TÙNG TUY THẤT THỊNH ĐƯỜNG”

15:34 10/04/2015

DÂN TRÍ

Không học chữ Nho, nghe qua hai câu thơ Hán Việt vừa dẫn thì cũng có thể hiểu được nghĩa lý một cách mang mang hồn sử thi.

Chân dung Cao Bá Quát - Ảnh: wiki

Chữ “vô” (無) và chữ “thất” (失) là hai từ “mắt khóa” để bật mở ra ý nghĩa hai câu đối và rồi dịch ra tiếng Việt một cách nhẹ nhàng như sau:

“Văn của ông Siêu, ông Quát khiến thời Tiền Hán phải chịu,
Thơ của Tùng Công, Tuy Công thì thời Thịnh Đường phải nhường”.


Tưởng cũng cần chép lại nguyên tác bằng chữ Hán:

文 如 超 适 無 前 暵
詩 到 從 綏 失 盛 唐

I. Bốn nhân vật văn học nổi tiếng giữa thế kỷ 19

1.1. Bồ chữ: Tiếng “bồ” trong giai thoại về Cao Bá Quát, là ngôn từ dân dã - Người nông dân dùng cái bồ để chứa lúa. Đã là giai thoại thì làm sao tránh khỏi tính cách nửa đùa, nửa thực. Nho sinh, kẻ sĩ, sĩ phu “đựng chữ” ở trong cân não, trong bụng dạ. Nhà nông có lúa gạo, người học thức có chữ, giàu chữ thì phải có “bịt”, có bồ để đựng, để chứa.

Cao Bá Quát (1809 - 1854) được người đời tôn gọi là “Thánh Quát” vì là thần đồng, thiên tài về văn chương thi phú đương thời. Bạn chí thân của ông là Phó bảng Nguyễn Văn Siêu (1799 - 1872) với tuổi tác chênh lệch nhau khác nào tuổi đời cách biệt giữa Nguyễn Du (1766 - 1820) với bạn tri âm Phạm Quý Thích (1760 - 1825) vậy.

Thời Tiền Hán dài trên hai trăm năm, kể từ năm 206 trước Tây Lịch đến năm thứ 8 sau Công nguyên. Vào thời kỳ này văn học phát triển thịnh đạt và rực rỡ. Tiêu biểu nhất về văn sử là Tư Mã Thiên, ông đã để lại cho hậu thế một công trình biên soạn lớn lao được chép theo lối kỷ truyện, chớ không theo lối biên niên.

Năm Minh mạng thứ 12, 1831 Cao Bá Quát thi Hương tại trường thi Thăng Long đỗ Á nguyên trong danh sách 20 thí sinh được chấm đậu lấy Cử nhân. Không hiểu vì lý do gì khiến 6 tháng sau có lệnh chấm lại các quyển thi của ông rồi xếp đậu cuối bảng. Xưa, có lệ thí sinh đỗ đội bảng phải bưng khay đựng áo mão cho những tân khoa đỗ thứ bậc bên trên từ thứ 1 đến 19. Vinh đi liền sau với nhục; Cao Bá Quát hận đời chẳng đẹp. Ông cũng nổi tiếng thêm vì đã nén lòng “chịu nhục” do thi cử bất minh.

Thơ văn họ Cao đã dậy sóng từ những trước năm 1831 được thế gian phong là thần đồng. Tuy đỗ đạt nhưng Cao Bá Quát chưa chịu ra làm quan. Rồi cảnh ngộ gieo neo, vợ chết sớm để lại 2 con. Năm 1841, triều đình lục dụng người tài ẩn dật, ông bị tiến cử về Kinh đô Huế nhậm chức Hành Tẩu bộ Lễ. Vào thời điểm ấy, Phương Đình Nguyễn Văn Siêu đã làm quan tại Viện Hàn lâm và Viện Tập Hiền. Văn tài của đôi bạn lại dậy sóng ở đất thần kinh: “Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán”.

Lúc Cao Bá Quát giữ chức Chủ sự bộ Lễ, sau điện Cần Chánh mới đắp một hòn non bộ để dựng trong bể cạn, vua Tự Đức sai Nguyễn Văn Siêu đề câu đối. Ông Siêu ngẫm nghĩ mấy hôm chưa ý tứ để đề cho hay, nhân gặp ông Quát đến chơi, ông Siêu lấy tình thân mới thành thực ngỏ ý với bạn quý. Ông Quát liền viết ngay lên giấy, rồi đọc cho bạn nghe:

Sơn nhược hữu thần hô Hán tuế,
Hải như sinh thánh thiếp Chu ba
(1)

Dịch là:

Núi có thần linh thì hớn hở chúc mừng vua Hán
Biển như sinh thánh thì im lặng sóng gió nhà Chu.


Các quan trong triều ngoài quận đều lăn phục là tuyệt hay: Thơ Thánh!

Sách Đại Nam Chính Biên Liệt truyện có đoạn về thi tài của “thánh Quát” như sau:

“Cao Bá Quát, người huyện Gia Lâm tỉnh Bắc Ninh, cùng với anh là Bá Đạt đẻ sinh đôi nên đặt tên như thế, nhỏ kháu khỉnh thông minh đều có văn tài, Quát sau làm nhà ở trong thành Đại La tỉnh Hà Nội. Minh Mạng năm thứ 12 (1831) về khoa thi Hương đỗ Á nguyên, khi bộ duyệt đánh vào hạng chưa được Á nguyên mà thi Tiến sĩ thường bị hỏng. Bá Quát tức giận ngày thêm dùi mài, văn càng mạnh, cùng với Phó bảng huyện Thọ Xương là Phương Đình Nguyễn Văn Siêu đều nổi tiếng. Bấy giờ nhiều người hâm mộ có câu: “Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán”, nghĩa là “Văn của Siêu - Quát vượt cả danh nho đời Tiền Hán”.(2)

1.2. Thi ông Tùng Thiện và Thi bá Tuy Lý: Tiểu sử của nhân vật lịch sử trở thành một nhánh của sử, đó là Truyện. Cứ theo điển lệ, hoàng tử đến tuổi trưởng thành có thực tài, bước đầu lập công, nhân cách đạo hạnh phải trải qua kỳ thi khảo hạch để được phong tước “Công”. Rồi theo đà tiến và thời gian mới được tôn phong Quận Vương, và truy phong hoặc tiến phong. Thông thường tước Vương là tột trần để truy phong sau khi đã mất.

Năm Minh Mạng thứ 16, 1836 Hoàng tử thứ 10 là Nguyễn Phúc Miên Thẩm (1819 - 1870) được nhà vua tấn phong Tùng Thiện Công. Tùng Thiện là tên một huyện ở Bắc Hà, cho mở phủ ở phường Liêm Năng trong Hoàng Thành(3). Bốn năm sau, Hoàng tử thứ 11 là Nguyễn Phúc Miên Trinh (1819 - 1897) được tấn phong làm Tuy Lý Công. Tuy Lý tên một huyện ở tỉnh Phú Yên.

Tại hai phủ gần bên nhau của hai anh em Tùng - Tuy, thi ông và thi bá đương thời thỏa lòng xướng họa, vui hưởng thơ phú cùng với sĩ phu trong triều ngoài quận. Và từ đó là cái gốc, cái nôi cho Tùng Vân thi xã ra đời mà Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát cùng tham dự để gây sốc phát sinh ra nhiều giai thoại kỳ thú.

Đại Nam Chính Biên Liệt truyện đã viết phẩm cách của hai hoàng tử:

“Ông [Tùng Thiện Công] thông minh ham học, ngoài sách vở ra không thích gì. Nghe có sách hay, bỏ tiền ra mua. Học vấn sâu rộng; lời ý điển nhã, càng giỏi về thơ. Cùng hoàng tử thứ 11 là Tuy Lý Vương đều nổi tiếng bằng nhau. Dực Tôn Anh Hoàng đế vốn tin yêu, thường thường sai biên chép thơ chọn lọc của các đời, chấm và phê bình để tiến lên. Cho nên người làm thơ có câu: “Thơ đến ông Tùng, ông Tuy hơn cả đời Thịnh Đường”(4).

Nhân dịp lễ húy kỵ và kỷ niệm 100 năm ngày mất của Tùng Thiện Vương (30/3/1870) năm 1970 các tác giả Ưng Trình và con trai trưởng là giáo sư Bửu Dưỡng đã cho ra mắt độc giả sách “TÙNG THIỆN VƯƠNG” (1819 - 1870)(5). Hai soạn giả đã khẳng định một cách quả quyết hai câu thơ bất hủ được lưu truyền nói trên không phải do vua Tự Đức sáng tác. Vì sao? Trong toàn bộ thi văn của nhà vua không hề ghi chép hai câu thơ ấy.

Nhà báo Phan Khôi (1887 - 1959), tác giả sách Chương dân thi thoại xuất bản năm 1936 thì chưa phân định rõ vua Thiệu Trị hay vua Tự Đức là tác giả.

“Tùng Thiện Vương, tên là Miên Thẩm, tự là Thận Minh, con trai thứ mười vua Minh Mạng, người Huế quen gọi ngài Tùng, hay là Thương Sơn (Thương Sơn là biệt hiệu ngài), có tiếng hay chữ nhất trong thời ấy, mà sở trường về nghề làm thơ. Có em là Tuy Lý Vương cũng học rộng và hay thơ, nổi tiếng ngang nhau, tục truyền vua Thiệu Trị hay vua Tự Đức chi đó có câu thơ rằng: “Thi đáo Tùng Tuy thất thạnh Đường”, là chỉ hai ngài đó”.(6)

Mộ Tùng Thiện Vương (ở Huế). Ảnh: Bùi Thụy Đào Nguyên


1.3. Những ai đã khẳng định vua Tự Đức là tác giả 2 câu thơ ấy

Từ đầu thế kỷ 20 cho đến nay nhiều nhân sĩ trí thức có tiếng, chuyên tâm nghiên cứu văn học cổ Việt Nam đều khẳng định tác giả hai câu thơ đã dẫn thượng là đích thị vua Tự Đức. Rất tiếc là chỉ dừng lại và không phân tích hoặc chú giải thêm.

1.3.1. Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề dày công viết sách Việt Nam ca trù biên khảo xuất bản năm Nhâm Dần, 1962 viết:

“Ông [Cao Bá Quát] tài hoa mẫn tiệp, xuất khẩu thành chương, áp đảo được mọi người. Vua Tự Đức đã khen:

“VĂN NHƯ SIÊU QUÁT VÔ TIỀN HÁN
文 如 超 适 無 前 暵

THI ĐÁO TÙNG TUY THẤT THỊNH ĐƯỜNG
詩 到 從 綏 失 盛 唐(7)

Hồng Liên Lê Xuân Giáo dịch rõ và thanh thoát:

Văn như Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát thời Tiền Hán phải thua
Thơ như Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương thời Thịnh Đường còn kém
.(8)

Thời Thịnh Đường văn chương Trung Quốc thịnh đạt và rực rỡ, tiêu biểu là thơ Tiên, thơ Thánh của Lý Bạch, Đỗ Phủ. Trăm hoa đua nở, thể thức thơ Đường đã đi vào quy chuẩn mẫu mực. Thời kỳ này là hoàng kim thời đại, trải qua trên 110 năm, từ năm 713 đến 823 sau Tây lịch. Thời Thịnh Đường, các văn nhân và thi hào gây ra phong trào phục hồi văn học thành thực và mạnh mẽ của triều nhà Hán.

1.3.2. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương vận dụng hết tài năng viết bài diễn thuyết sáng giá có tựa đề Một niềm tin nhân dịp kỷ niệm ngày giỗ thứ 149 của Đại thi hào Nguyễn Du. Bài diễn thuyết có đoạn viết gây ấn tượng:

“…Mà xét kỹ thì con người được dân chúng Bắc Hà kính phục tài văn chương đến xưng tụng là Thánh Quát, con người ấy đã đậu Á nguyên năm Minh Mạng thứ 12 rồi 6 tháng sau lại bị các quan Đại thần ở Đế đô mang bài thi ra tái duyệt để vin vào những lý luận viển vông hạ tuột cái địa vị Á nguyên xuống tận hàng Cử nhân đội bảng. Thật là một điều hy hữu trong lịch sử thi cử nước nhà. Mặc dầu vua Tự Đức có ý định giàn hòa cả Đàng Ngoài, Đàng Trong bằng 2 câu ngự bút:

“Văn Như Siêu, Quát Vô Tiền Hán
Thi Đáo Tùng, Tuy Thất Thịnh Đường”
(9)

1.3.3. Hồng Liên Lê Xuân Giáo viết bài khảo cứu về Cái chết bi hùng của Thánh Quát. Tác giả nói về thiên tài của Cao Bá Quát như sau:

“Từ đây [năm 1831], tiếng tăm hay chữ của vị Á nguyên họ Cao đã được loan truyền khắp đất Bắc Hà, và còn vang dội vào tận chốn Thần kinh nữa.

Những bậc văn nhân mặc khách trong nước, không mấy ai không nghe tiếng “Thánh Quát”, và không mấy ai mà không đối thoại với “Thánh Quát”…

Về văn tài, Quát ngang hàng với Nguyễn Văn Siêu (biệt hiệu Phương Đình, đỗ phó bảng, quê thôn Dũng Thọ, huyện Thọ Xương, Hà Nội), nên Dực Tông Anh Hoàng Đế mới có hai câu thơ: “Văn Như Siêu Quát Vô Tiền Hán/ Thi Đáo Tùng Tuy Thất Thịnh Đường”
.(10)

II. CỘI NGUỒN LÀM ĐÀ SÁNG TẠO CHO HAI CÂU THƠ THỜI DANH ẤY

Viết Truyện hoặc Liệt truyện thì phải vận dụng thể tài văn học nhằm thuật lại gốc ngọn trước sau của một người, từng nhân vật. Trong 4 nhân vật thì họ Cao gây nhiều ấn tượng nhất đối với độc giả. Nắm vững được tầm tinh của nhân vật “mắt đinh” này thì sẽ hiểu sức thâm nhập của Tam giáo đồng nguyên của Cao Bá Quát không bằng 3 nhân vật còn lại.

Cao Bá Quát là con trai của ông Đồ hay chữ Cao Cửu Chiếu bằng trang tuổi của Nguyễn Du. Thân phụ của “thánh Quát” đã từng nhận xét về hai người con trai sinh đôi rằng: “Văn của Bá Quát thì trỗi về tài tử, nhưng thua về khuôn phép. Nếu đem cái tài tử của Bá Quát hợp với cái quy cũ của Bá Đạt sẽ có thể trở nên một văn tài hoàn toàn”(11). Tiếc thay! Cao Bá Quát không thấm sâu lời nghiêm phụ đã dạy.

2.1. Về hai dòng tộc họ Nguyễn và họ Cao của Nguyễn Du và Cao Bá Quát có nhiều nét tương đồng. Hai dòng tộc này đều là thuộc hàng danh gia thế phiệt. Các bậc tiên hiền tiền bối đều đỗ đạt cao, làm quan lớn tới chức Tể tướng, Thượng thư dưới các thời nhà Hậu Lê và Lê Trung Hưng. Quan điểm phò Lê, hoài Lê khá sâu đậm nét trong cân não, dòng máu của sĩ phu, danh sĩ Bắc Hà đương thời. Vậy mà sau khi đất nước đại định, giang san thu về một mối, vua Gia Long đã đổi tên gọi Bắc Hà ra Bắc Thành. Từ Thanh Hóa ngoại (tức Ninh Bình bấy giờ) trở ra gọi là Bắc Thành gồm 11 trấn. Cố đô Thăng Long được đổi chữ viết “Long” (con rồng) thành tiếng đồng âm “Long” của niên hiệu Gia Long.

2.2. Nguyễn Du và Cao Bá Quát có hai tánh khí khác nhau. Sách Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện cho biết: “Du là người ngạo nghễ tự phụ, mà bề ngoài tỏ ra kính cẩn, mỗi khi vào yết kiến sợ hãi như không nói được…”(12)

Nguyễn Du ngạo nghễ tự phụ theo ảnh hưởng của mạch đất, của chất Bắc Hà - Nghệ Tĩnh. Đọc tiểu sử của ông thì dễ dàng thấy rõ nhược điểm này.

Nguyễn Du khôn khéo gởi gắm nguồn cơn tâm sự rõ nét qua Truyện Kiều. Khí phách của Từ Hải đã nói thay cho ông… Nguyễn Bách Khoa đã viết trong sách Nguyễn Du và Truyện Kiều, xuất bản lần thứ hai năm 1951 khá nhiều. Tiêu biểu trích dẫn một câu:

“Từ Hải và cuộc đời ngang dọc của Từ Hải chỉ là giấc mộng đẹp thân yêu của mình mà sức bố đáp Cần vương đã tàn theo một đẳng cấp tàn”.(13)

Đường làm quan với tân triều của Nguyễn Du khiên cưỡng. Vẫn còn như ẩn dấu ấp ủ “cái gì” chưa nói hết ra được “một cách trực diện”. Đã có 3 lần Nguyễn Du xin nghỉ về vui thú điền viên: năm 1805 đang làm quan phủ huyện, cụ xin cáo bệnh về quê. Năm 1812 lại xin cáo bệnh xin từ quan, sau năm 1813 đi sứ về cụ lại vin cớ xin nghỉ 6 tháng.

Còn Cao Bá Quát thì xuất thân làm quan buổi đầu khiên cưỡng. Rồi nhập thế cũng lắm truân chuyên chỉ vì có tài, thị người cho nên trước sau cũng bị “đẩy hất” đi ra cho “khuất con mắt” người ta ở chốn triều đình được vua Thiệu Trị đặt tên đất thần kinh. Thôi thì “hất lên” cho ông Cao Bá Quát “ra riêng một cõi” ở phương trời hiu hắt đèo heo hút gió. Họ Cao tự phụ, kiêu hãnh cho xuất thân là thần đồng, thơ thánh. Cái ma men của rượu nồng đã góp phần báo hại khiến đời ông tan tác như “cuồng sĩ”. Tuổi trẻ mà tài cao là điều không hay! “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Cổ thi đã từng nói lên điều ấy bằng câu: “Trí tuệ thông minh khước thụ bần”.

Ở nhiệm sở mới, giáo thụ phủ Quốc Oai tỉnh Sơn Tây, Cao Bá Quát nhân dịp đầu xuân làm thơ khai bút, có hai câu tả chân:

Hốt hốt bút niêm thành vạn tự.
Thao thao bút hạ tảo thiên quân.


忽忽 筆 拈 成 萬 字
滔滔 筆 下 掃 千 軍

Hồng Liên Lê Xuân Giáo dịch là:

Lập tức cầm tay, thành vạn chữ
Thao thao tay hạ, quét sạch ngàn quân”
(14).

Rồi, ông chán ngán sự đời, từ quan ra về, rồi cùng với Nguyễn Kim Thanh phò tá Lê Duy Cự là con cháu nhà Lê khởi nghĩa.

Cao Bá Quát bị bắt đưa về làng Phú Thị xử tử. Hai con trai là Cao Bá Thông và Cao Bá Phùng đều bị chết. Quốc sử không chép như thế mà lại nói ông chết trận! Bị trúng đạn!

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã có phần luận lý liên quan đến đời văn, đời thơ của Nguyễn Du, của Cao Bá Quát:

“Cho nên thi hào Nguyễn Du đã phải dùng VĂN, lấy áng “thiên thu tuyệt diệu từ”(15) để Hóa-giải mọi đắng cay ngấm ngầm, hàn gắn mọi vết thương tận đáy lòng, nhổ bật lên mọi chiếc gai tự tôn cũng như tự ti mặc cảm, mong chặn đứng lại mầm kỳ thị chia rẽ tranh giành…

Nhìn lại khoảng thời gian từ 1820 đến nay, nhiều vị hẳn lắc đầu nghi hoặc: cái ước vọng HÓA-GIẢI của tiên sinh đã đạt được gì cụ thể đâu! Này nhé. Vua Minh Mạng vừa lên ngôi được 6 năm, rồi đến đời vua Tự Đức lại có lần quật khởi thứ hai ở Sơn Tây, Bắc Ninh, thực lực và thanh thế đều đáng lo ngại hơn gấp bội. Chính bậc kỳ tài Cao Bá Quát đã gia nhập “loạn đảng” và bị kết tội “phản thần”, cả nhà cả họ mắc vạ lây, máu lê tràn ngập trên pháp trường rồi cô đọng lại nơi vân điểu”.
(16)

Giữa “đời” và “truyện” như hé mở ra hai trục đường, đôi ngả. Ai hiểu sao thì hiểu. Cao Bá Quát có “cách làm” của ông. Kế thế thế giới quan của người đi trước là Nguyễn Du. Ở thời đẳng cấp Cần Vương hoài cổ sắp đã tàn… Cho nên phải “chịu trận” mà Phương Đình Nguyễn Văn Siêu đã nói là: “… cõi trần lưu xấu mà cũng lưu thơm”.

Sau khi Nguyễn Du thọ bệnh và mất, bạn thân là tiến sĩ Phạm Quý Thích hoàn thành bản khắc in Truyện Kiều. Vua Minh Mạng ngự lãm và đổi tên thành tên mới Đoạn trường tân thanh. Không rõ Hoàng thượng có nhuận sắc và châu phê gì thêm không. Về sau, vua Thiệu Trị cũng giận lây. Chính vua Tự Đức lại càng tỏ ý giận dữ hơn khi hay tin khẩn báo về triều việc Cao Bá Quát tham gia khởi nghĩa phò Lê. Họ Cao làm giặc, là nghịch thần phải chịu cái án “tru di tam tộc”. Vua Tự Đức duyệt lại Truyện Kiều. Từ đó hình thành 2 bản: bản kinh và bản phường…

Và từ đó, sử sách cũng đã chép lệch đi tác giả của 2 câu thơ bất hủ ấy là của người đời, của người làm thơ đương thời! Và sự thật như thế nào thì chỉ có trời biết, dân gian biết. Giữa “chuyện” và “truyện” đã có sai lệch tạo thành “nghi án” văn học và khuyết nghi của lịch sử thời cận đại.

Xưa nay, từ cổ chí kim nếu một tiểu phẩm, một danh phẩm nào được cho là có nhiều tác giả khác nhau thì lại càng được nâng cấp giá trị, lại càng được thế gian lưu truyền nhanh chóng và rộng rãi chỉ vì “miệng thế gian như có gang có thép”.

*

Cổ học tinh hoa của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc có chép chuyện vua nước Sở mất gươm. Nhà vua và triều thần sai quân lính và các quan thừa hành bên dưới đi tìm gươm. Có quan tâu lên Hoàng đế rằng: “Vua nước Sở mất gươm báu thì dân nước Sở được, chớ sức mô mà tốn công, tốn của, sức lực của thần dân đi tìm”. Vua mất, dân được. Vua cũng là dân nước, giao cho dân giữ thì còn và lại bền vững hơn. Mạnh Tử nói: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”.

Tích xưa, việc cũ nó như thế đấy! Ai hiểu sao thì hiểu. Tùy duyên.

28/2/2015
D.T
(SDB16/03-15)


---------------
1. Nguyên tác bằng chữ Hán:
山 若 有 神 呼 漢 歲
海 如 生 聖 帖 周 波

2. Đại Nam Chính Biên Liệt truyện, tập 3, quyển 46, Mục II, Quốc sử quán, viện Sử học dịch, Nxb. Thuận Hóa Huế, 1993, tr.511.

3. Phía sau Tam tòa cũ, đường Đinh Công Tráng. Về sau dời về làng An Cựu và làng Vỹ Dạ.

4. Đại Nam Chính Biên Liệt truyện, tập 2, quyển 5, Mục I, Quốc sử quán, viện Sử học dịch, Nxb. Thuận Hóa Huế, 1993, tr.104.

5. Tùng Thiện Vương (1819 - 1870), Ưng Trình và Bửu Dưỡng, Nxb. Sao Mai, Sài Gòn, 1970, tr.72.

6. Chương dân thi thoại, Phan Khôi, Nxb. Đà Nẵng, 1998, tr.90. Tái bản theo bản in năm 1936.

7. Việt Nam ca trù biên khảo, Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tái bản, 1994, tr.635 - 636. Bản đầu tiên in năm 1962 do Đại học Vạn Hạnh phát hành.

8. Văn hóa tập san, số 3, 1973, bài “Cái chết bi hùng của Thánh Quát”, Lê Xuân Giáo, Nxb. Nha Văn hóa, bộ QGGD và TN, Sài Gòn, 1973, tr. 72. Ông Giáo là học trò Tiến sĩ Nguyễn Mai (mất năm 1954) cháu của Nguyễn Du.

9. Văn hóa tập san, số 2 - 3 (năm 1969), bài “Một niềm tin”, Vũ Hoàng Chương, Nxb. Nha Văn hóa, phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn Hóa, Sài Gòn, 1969, tr.31. Đây là bài diễn thuyết sáng giá nhân kỷ niệm 149 năm ngày mất của Nguyễn Du.

10. Văn hóa tập san, Số 3, 1973, Sđd, bài đã dẫn, tr.70 - 71.

11. Văn hóa tập san, Số 3, 1973, Sđd, tr.68.

12. Đại Nam Chính Biên Liệt truyện, tập 4, quyển 20, Truyện các quan, Mục XVII. Quốc sử quán, viện Sử học dịch, Nxb. Thuận Hóa Huế, 1993, tr.335 - 336.

13. Nguyễn Du và Truyện Kiều, Nguyễn Bách Khoa, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 1951, tr.123.

14. Văn hóa tập san, Số 3, 1973, Sđd, bài đã dẫn, tr.76.

15. Áng “thiên thu tuyệt diệu từ” hàm ý chỉ Truyện Kiều. Cụ Tú tài Phan Thạch Sơ có thơ đề Kiều như sau:

Hữu minh nhất đại vô song kỹ
Đại Việt thiên thu tuyệt diệu từ


Nguyễn Bách Khoa trong tác phẩm Nguyễn Du và Truyện Kiều dịch:

Cô đĩ không hai ở trong đời nhà Hữu Minh
Lời văn rất hay để lại nghìn năm nước Đại Việt


16. Văn hóa tập san, Số 2 - 3, 1969, Sđd, tr.76.



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.