Nghĩ về một Festival thơ Huế

09:15 05/05/2009
Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.

Ý tưởng của tôi đã dựa trên những cơ sở sau đây:

1. Thơ, nguồn tài nguyên vô giá của dân tộc: Thơ Việt Nam có sớm (ít nhất cũng trên 10 thế kỷ) và rất phong phú đa dạng (thơ chữ Hán, thơ chữ Nôm, thơ chữ Quốc ngữ và có cả thơ chữ Pháp, chữ Anh, chữ Đức...). Vua chúa (Lê Thánh Tôn, Tự Đức..), các nhà lãnh đạo tinh thần (các Thiền sư đời Lý, Trần...), lãnh đạo chính trị (Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh), lãnh đạo quân sự (Lý Thường Kiệt, Đào Duy Từ...), trí thức (Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du...), dân chúng (kể cả công nhân, nông dân, người giàu, người nghèo và người lao động tác giả của kho tàng ca dao Việt Nam), người già (Hoàng Cầm), thiếu nhi (Trần Đăng Khoa), đàn ông (Xuân Diệu, Tố Hữu...), đàn bà (Bà Huyện Thanh Quan, Anh Thơ...), dân tộc ít người (Nông Quốc Chấn, Bế Kiến Quốc...) đều làm thơ. Có thể nói cả dân tộc Việt làm thơ. Thơ là lọai hình văn học được cả xã hội Việt Nam yêu thích. Qua thơ người ta có thể hiểu được tâm hồn Việt Nam.

Nước Pháp có nhiều nhà thơ lớn, có ảnh hưởng đến cả văn học thế giới, nhưng xã hội Pháp không có nhiều người làm thơ như xã hội Việt Nam. Hơn nữa, với cuộc sống hiện nay, người Pháp bị thu hút bởi truyền hình, sân khấu, âm nhạc, hội họa, văn xuôi...thơ Pháp đang mất dần chỗ đứng. Nhiều nước tân tiến khác trên thế giới cũng thế. Do đó nhiều người Âu Mỹ yêu thơ đang cần một môi trường thơ để tìm đến. Cảnh quan thiên nhiên của Việt Nam còn giữ được tương đối tốt; nhịp sống của người Việt Nam chưa bị cuốn vào guồng máy công nghiệp hiện đại nên con người và thiên nhiên Việt Nam còn gắn bó với nhau, thơ còn cơ hội để phát triển. Có thể nói Việt Nam là điểm đến của người yêu thơ. Đồng thời, thơ-một bộ phận quan trọng của văn hóa Việt Nam, đã có tiếng vang ở nước ngòai (Truyện Kiều, Thơ Hồ Xuân Hương...). nhiều người nước ngòai muốn biết Việt Nam qua thơ. Thơ Việt Nam + cảnh quan Việt Nam, sẽ trở thành tài nguyên du lịch vô giá của Việt Nam thời hội nhập, nếu biết tổ chức khai thác.

2. Nội dung Festival Thơ: Nghiên cứu nội dung các lọai hình Festival văn hóa dân tộc của nước ngòai, chương trình một Festival thơ Việt Nam có thể thực hiện với các nội dung sau:
- Đọc và giới thiệu những bài thơ tiêu biểu của thơ Việt Nam, đọc và giới thiệu những sáng tác mới đã được chọn lọc; đọc và giới thiệu thơ viết bằng các ngôn ngữ dân tộc ít người;
- Hội thảo: Thơ cũ và thơ mới; Dịch thơ và Thơ dịch; Truyện thơ; Thơ trong kịch bản Chèo, trong Ca Huế, trong Cải Lương; trong Hát Bội; trong ca từ tân nhạc; Những vấn đề thơ hôm nay của Việt Nam và thế giới (Trung Quốc, Nhật, Pháp, Mỹ...);
- Giới thiệu những tác giả Việt Nam làm thơ bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Nga, tiếng Trung Quốc;
- Bình thơ, ngâm thơ, hát thơ, kịch thơ, họa thơ;
- Biểu diễn thơ phổ nhạc và tìm hiểu chất thơ trong lời nhạc;
-Triển lãm thơ: Các tác phẩm thơ quý hiếm (xưa và nay), Thơ với thư pháp, thơ trên đồ sứ men lam, thơ khắc trên bia đá, thơ chạm trên tranh gương; thơ chạm trên tuồng gỗ cung điện, nhà rường; thơ viết bằng văn tự của các dân tộc ít người;.
- Các trò chơi thơ: Đố thơ, Thả thơ, Bói Kiều;
- Trao giải các cuộc thi: Những tập thơ cũ có giá trị quý hiếm, những bài thơ hay, bình thơ hay, kịch thơ hay, ngâm thơ hay, dịch thơ hay....
- Hội chợ bán thơ, xuất bản thơ, trao đổi thơ.
- Vinh danh những nhà thơ tiêu biểu của Việt Nam.
Nội dung cho một Festival thơ Việt Nam hết sức phong phú. Thực hiện các nội dung không tốn kém lắm, hàng ngàn người trong nước và nước ngòai, người nước ngòai có thể tham gia.

3. Huế có đủ điều kiện cho một Festival Thơ hằng năm:
Với sông Hương, các thắng cảnh, di tích lịch sử, nhà vườn, Huế được mệnh danh là Thành phố Thơ. Huế có nhiều người làm thơ tiếng nước ngòai. Nhiều thơ Huế chưa được khám phá như thơ của các vua các ông hòang bà chúa (Tương An Quận vương, Mai Am, Huệ Phố, Nguyệt Đình), thơ trên di tích lịch sử (điện Thái Hòa, điện Long An), thơ của nhiều nhà thơ Huế hiện đại chưa được biết đến nhiều (như Tôn Thất Quán, Võ Ngọc Trác, Quách Thọai - người được mệnh danh là Hàn Mặc Tử của Huế). Bên cạnh đó, trong lịch sử văn hóa truyền thống cho biết Huế có nhiều trò chơi thơ nổi tiếng như thả thơ, đố thơ, họa thơ. Huế có khối lượng người yêu thơ trong giới văn nghệ sĩ, thầy cô giáo, trong dân chúng, sinh viên yêu thơ trong các Đại học khá đông. Huế lại ở giữa hai miền Nam Bắc VN, việc đi lại thuận tiện. Khách đến tham dự Festival Thơ Huế kết hợp tham quan du lịch Huế rất thú vị. Và, không có nơi nào tổ chức festival thơ thuận lợi cho bằng Huế vì Huế đã có sẵn kinh nghiệm và công nghệ tổ chức Festival.

4.Tổ chức thực hiện: Ban tổ chức Festival của Thừa Thiên Huế hối hợp cùng với Hội Nhà văn Việt Nam.
Việc chuẩn bị cần thời gian và trí tuệ nhiều nhất là quảng cáo, tuyển chọn, dịch thuật nội dung thơ cho Festival ra tiếng nước ngoài, và dịch thơ nước ngoài (ví dụ thơ Pháp, Anh, Mỹ, Đức, Nga, Trung Quốc, Đại Hàn, Nhật, Triều Tiên, Lào, Campuchia...) ra tiếng Việt. Để đỡ bớt tốn kém có thể liên hệ với các cơ quan văn hóa nước ngoài, các hội văn học ngoài nước, các Việt kiều có khả năng dịch thuật tốt để họ giúp đỡ. Tham dự Festival Thơ Huế có thể với tư cách cá nhân hay đòan thể, các hội văn nghệ và sở Giáo dục đào tạo địa phương. Mọi chi phí do người tham dư tự túc.

Khách mời để vinh danh: những nhà thơ tiêu biểu, hoặc người thân của họ. Một số nhà thơ thế giới, các dịch giả thơ đã có quan hệ với Việt Nam.
 Người tham dự gồm các nhà thơ trong và ngòai trong các Hội Nhà văn, các Câu lạc bộ thơ trên tòan quốc, các tổ chức thơ của người Việt Nam ở nước ngòai. Nếu được các Tòa Đại sứ giới thiệu, có thể mời thêm các Hội thơ của Pháp, Mỹ, Đức, Nhật Bản, Trung Quốc v.v.
Người tham dự chính là khách du lịch trong và ngòai nước yêu thơ.

5. Hiệu quả: Nếu tổ chức tốt Festival Thơ Huế, Thừa Thiên Huế sẽ thu hút được nhiều người đến du lịch Huế. Festival Thơ Huế sẽ góp phần giáo dục quốc văn, hâm nóng tâm hồn Việt Nam cho giới trẻ, luyện tập thể dục cho tinh thần người lớn tuổi; giúp cho lời nói Việt Nam súc tích và đẹp hơn. Qua đó cổ vũ các nhà sọan ca khúc làm lời ca sao cho có chất thơ.
Festival Thơ Huế sẽ giúp đưa văn học Việt Nam ra nước ngòai, vận dụng được đông đảo Việt kiều và người ngọai quốc đóng góp cho Việt Nam. Mặt khác các nhà thơ Việt Nam có dịp tiếp cận tham khảo những tư trào thơ mới trong việc đổi mới thơ Việt Nam.
Festival Thơ Huế là một cơ hội để vinh danh các nhà thơ Việt Nam. Giúp các nhà nghiên cứu trên thế giới qua ngôn ngữ thơ, tìm thấy những giá trị cơ bản trong bản sắc Việt Nam phục vụ cho các bộ môn xã hội học, dân tộc học, tâm lý học.
Tổ chức Festival Thơ Huế thành công sẽ đề nghị bộ Văn Hóa thành lập một Viện nghiên cứu thơ Việt Nam tại Huế, bên cạnh Viện có Bảo tàng Thơ, Nhà xuất bản Thơ. Đây là một nội dung quan trọng của Huế -Thành phố Du lịch Việt Nam.   

6. Tính khả thi: Tìm hiểu công nghệ Festival của Pháp ta thấy hằng năm Pháp có nhiều Festival ở khắp các địa phương. Những Festival Pháp được báo chí Việt Nam thường nhắc đến là Festival điện ảnh ở Cannes, Festival Tranh họat hình (bandes dessinées) ở Angoulème, Festival phim hình sự ở Cognac (vùng phía Tây nước Pháp), Festival phim Mỹ ở Deauville (Tây bắc Pháp). Đặc biệt, Vesoul là thành phố với 20.000 dân, cách Paris 350 km về phía Đông Nam, nổi tiếng qua những Festival trình bày và khuyến mãi những nền Điện Ảnh Châu Á. Trong Festival lần thứ 9 – từ mùng 4 đến 11 tháng hai 2003 vừa qua, giới thiệu 60 phim đến từ các vùng Cận Đông, Trung Đông và Viễn Đông, với ba mươi ba phim chưa từng trình chiếu. Đạo diễn Đặng Nhật Minh của Việt Nam được mời vào ban giám khảo. Nhiều tỉnh mỗi năm có đến mấy Festival quốc tế. Ví dụ như tỉnh (département) Charente ở miền Tây nước Pháp hằng năm có đến hai Festival quốc tế tại Cognac và Angoulème.

Căn cứ vào dân số của nơi tổ chức và lọai hình được chọn làm nội dung Festival, ta có thể tin Huế với Thơ có đủ sức hình thành một Festival hằng năm. Tính khả thi của một Festival Thơ Huế rất cao. Bởi thế một vị giáo sư giảng dạy văn học ở Đại học Paris nghe tôi nói Huế đang nghĩ đến "Dự án Festival Thơ", ông cho đó là Một sáng kiến cao đẹp, dĩ nhiên là có phần táo bạo, nhưng không viển vông. Và ngay sau đó, qua thư điện tử, ông đã đã thảo luận với một số anh em trong nhóm Tạp chí Thơ, (California-Hoa kỳ). Hội Người Yêu Huế các nơi cũng sẽ đóng góp tích cực.

Nếu Festival Thơ Huế được thực hiện với tinh thần như thế thì đó là một hạnh phúc lớn cho các nhà thơ Việt Nam, cho xã hội Việt Nam nói chung và xã hội Huế đẹp và thơ nói riêng.

Gác Thọ Lộc, 18.02.2003
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
(169/03-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Gần đây, khi Đảng ta chứng tỏ sự quan tâm của mình đối với đội ngũ trí thức thì trong dư luận cũng đã kịp thời có những phản ứng cộng hưởng. Điều mà chúng tôi lĩnh hội được gồm 3 câu hỏi tưởng chừng như "biết rồi khổ lắm nói mãi" nhưng lại không hẳn thế. Nó vẫn mới, vẫn nóng hổi vì sự tuyệt đối của qui luật vận động cũng như vì tính cập nhật, tính ứng dụng của đời sống. Chúng tôi xin được nêu ra và cùng bàn, cùng trao đổi cả 3 vấn đề.

  • Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...

  • Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.

  • 1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.

  • Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.

  • Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).

  • *Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.

  • Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...

  • Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.

  • I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.

  • Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.

  • I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.

  • Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.

  • Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.

  • Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...

  • Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.

  • Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

  • Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.

  • Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...

  • Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.