TRUNG SƠN
Một vài năm trở lại đây, những người quan tâm đến giá trị văn hóa của Huế vui mừng nhận thấy, bên cạnh các di sản quý báu của người xưa để lại, đã có không ít tác phẩm, công trình nghệ thuật mới làm đẹp thêm cho Huế, trong đó, hẳn phải kể đến sự xuất hiện các "Galery” - những phòng tranh thường xuyên ở 15 Lê Lợi, khách sạn Morin và những cuộc triển lãm được tổ chức liên tiếp ở Hội Văn Nghệ.
Văn nghệ sĩ Huế với NS Trịnh Công Sơn - Ảnh: tư liệu
Ngoài những tên tuổi quen thuộc trong giới nghệ thuật, một số tác giả sau nhiều năm im lặng đã bất ngờ "trình làng" nhiều tác phẩm mới có chất lượng, được người xem chú ý như Lê Quý Long hai năm trước và gần đây là triển lãm của hai cây bút Hồng Trọng Mỹ và Lê Văn Thiện...
Tuy vậy, điều tôi muốn nói lại từ những "chiếc nơ đỏ" hiếm hoi trong những phòng tranh ấy. Chiếc nơ đỏ kèm theo danh thiếp đính dưới bức tranh ấy là dấu hiệu báo rằng bức tranh ấy đã có người mua. Những chiếc nơ đỏ như vậy thật hiếm trong các phòng tranh ở Huế. Đã có phòng tranh của một họa sĩ quen biết - trong đó không ít bức có chất lượng - nhưng lại hoàn toàn vắng bóng những chiếc nơ đỏ!
Lý do của hiện tượng trên cũng dễ hiểu: Huế chưa hình thành một thị trường tranh. Người dân địa phương thì nghèo, ít ai đủ sức bỏ tiền mua tranh; còn khách du lịch, nếu muốn mua, nghĩ tới đóng gói, "mang vác" chúng ra Hà Nội hay vào thành phố Hồ Chí Minh để xuất ngoại, đều thấy ngại ngần.
Để có một phòng tranh, người họa sĩ thường phải bỏ ra mấy năm trời, tiêu tốn không ít tiền bạc. Tranh không bán được, lấy gì để "tái sản xuất"? Và cây cọ không hoạt động thì nghệ thuật cũng khó phát triển, nâng cao. Có cách gì gỡ được? Không chỉ một lần, tôi đã đề nghị các bạn họa sĩ Huế tập họp từng nhóm theo sở thích hoặc trường phái, mang tranh vào thành phố Hồ Chí Minh hay ra Hà Nội tổ chức triển lãm. “Tranh chọn từ Huế” - ví dụ một cái "tít" như vậy được chưng lên hẳn cũng gợi sự chú ý, cũng hấp dẫn lắm chứ. Tất nhiên, muốn tổ chức được những phòng tranh như vậy, phải có sự trợ giúp, liên kết của các tổ chức văn nghệ, trường mỹ thuật hoặc các "Mạnh Thường Quân". Tôi không hiểu vì lý do gì, những cuộc triển lãm như thế chưa được tổ chức. Có thể đây là một việc chưa nắm chắc phần thắng, chưa biết lời hay lỗ. Nhưng “vạn sự khởi đầu nan", con đường nào cũng phải có người mở lối, xin cứ thử xem. Vả chăng, chúng ta từng mang những hoạt động văn hóa, những loại hình nghệ thuật khác của Huế (như ca múa, ảnh...) giới thiệu ở những vùng xa mà chẳng hề tính toán lời lãi.
Sự vật nào thường cũng có mặt đối lập. Từ hiện trạng những "chiếc nơ đỏ" hiếm hoi, tôi lại nghĩ đến một điều gần như trái ngược. Giả như sau mỗi cuộc triển lãm, các bức tranh đều được gắn "nơ đỏ" kèm danh thiếp khách du lịch phương xa thì bên cạnh niềm vui của người họa sĩ sẽ là một sự tiếc nuối - tiếc cho Huế đã không giữ lại được những tác phẩm mới để làm phong phú thêm kho tàng nghệ thuật của mình. Dù chưa có một thị trường tranh sôi động, mấy chục năm qua, biết bao nhiêu tác phẩm đã lặng lẽ rời Huế ra đi - trong đó hẳn có những tác phẩm xứng đáng lưu giữ lại cho hậu thế chiêm ngưỡng.
Làm thế nào để giữ lại cho Huế, cho Việt Nam những tác phẩm có giá trị ấy? Cũng không chỉ một lần, tôi và một số anh em hoạt động văn nghệ đã đề nghị Huế cần có một bảo tàng mỹ thuật hiện đại. Có thể vào giai đoạn cuộc sống vật chất còn quá khó khăn, ý tưởng ấy đã vượt quá khả năng thực hiện. Nhưng bây giờ, đất nước đã bước sang thời kỳ phát triển mới, Huế đã "lên cấp" và chẳng bao lâu nữa, "Nhà trưng bày tác phẩm Điềm Phùng Thị" sẽ khai trương thì thiết nghĩ, việc xây dựng bảo tàng mỹ thuật hiện đại Huế rất đáng được quan tâm. Đây là một công trình lớn, không thể hoàn thành trong chốc lát, nhưng nhiều việc phải bắt tay từ bây giờ, nếu không sẽ là sự muộn màng, hối tiếc không có cách gì cứu vãn được. Ví dụ việc lựa chọn vị trí nào, biệt thự nào xứng đáng với công trình nghệ thuật này, nếu không được quyết định sớm thì rất có thể một thời gian ngắn nữa, nơi đó đã bị biến thành nhà hàng hay bị nhượng bán cho một tổ chức nước ngoài nào đó. Rồi những "chiếc nơ đỏ" dù ít, sẽ lần lượt mang những tác phẩm có giá trị ra khỏi Huế.
Vì vậy, tôi mong ước, trong khi chưa có bảo tàng mỹ thuật, những tác phẩm có giá trị nhất ở các "Galery", các cuộc triển lãm sẽ được đính những "chiếc nơ đỏ" mà danh thiếp kèm theo không phải là người xa lạ, một tổ chức được nhà nước tài trợ, bao gồm những người am hiểu mỹ thuật nhất của Huế, sẽ quyết định đính những "chiếc nơ đỏ" ấy. Được như thế, người họa sĩ vui vì bán được tranh để tiếp tục sáng tạo và chúng ta cũng vui vì đã giữ lại được tranh quê hương, đất nước những tài sản quý. Trước mắt, trong dịp xét tặng giải thưởng văn học nghệ thuật "Cố đô" lần thứ nhất, chúng ta hy vọng sẽ có những "chiếc nơ đỏ" như thế được gắn vào những tác phẩm có giá trị nhất. Điều đó không chỉ là tin vui đối với các tác giả mà với tất cả những người yêu Huế. Vì Huế chứng tỏ là một vùng đất luôn biết tôn trọng, biết làm phong phú thêm kho tàng văn hóa vốn đã rất giàu có của mình.
T.S
(TCSH58/11&12-1993)
Tham luận tại cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” của nhà thơ trẻ Lê Vĩnh Thái: "một lần ngồi uống cà phê tôi được một nhà thơ, người anh trong Hội thống kê về đội ngũ sáng tác trẻ nữ của cố đô Huế chỉ có vỏn vẹn chưa đầy 5 người mà tuổi đã ngoài 30, còn tuổi từ 20, 25 đến 30 thì không thấy!?... "
Từ cuối tháng 6. 2008, trên mạng Internet, cùng lúc có những bài viết về nhiều nhà văn, nhà thơ ở Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ và ở Quảng Trị, Quảng Bình. Các bài viết được đăng tải trên các báo điện tử nước ngoài (hoặc sách in ra được các tờ báo đó đưa lên mạng), cả trên tờ báo của một tổ chức chống nhà nước Việt Nam cực đoan nhất, và trên blogs của một số nhà văn trong nước (được một số báo điện tử nước ngoài nối mạng sau đó). Mục đích khác nhau nhưng các bài đó, tạm xếp vào hai loại, có một điểm giống nhau: DỰNG ĐỨNG những sự kiện của cuộc đời và hoạt động của các nhà văn nhà thơ này.
Thư Sông Hương Vậy là năm đầu của thế kỷ XXI, của thiên niên kỷ III Công lịch đã qua. Mới ngày nào đó, khắp hành tinh này còn rộ lên niềm hoang mang và hoang tưởng về một ngày tận thế ở năm 2000 bởi sự “cứu rỗi” của Thiên Chúa hoặc bởi sự “mù loà” của máy tính. Mới một năm thôi mà thế giới loài người đã qua biết bao bất trắc, xung đột, khủng bố... và máu và nước mắt! May mà đất nước chúng ta vẫn được bình yên, ổn định, phát triển theo Đường lối Đại hội IX của Đảng. May mà dân ta vẫn còn nhu cầu Văn hoá tâm linh. Văn hoá tâm linh cũng là thuộc tính của văn học nghệ thuật. Các tờ báo văn nghệ tồn tại được chính nhờ nhu cầu đó. Qua một năm nhìn lại, Tạp chí Sông Hương chúng tôi ngày một được bạn đọc tin cậy hơn, cộng tác càng nhiều hơn, thật là điều vinh hạnh. Song, ngược lại, chúng tôi cũng lấy làm áy náy vì bài vở thì nhiều mà trang báo lại có hạn, không thể đăng tải hết được, nhất là số Tết này. Ở đây, nó mang một nghịch lý chua chát, bi hài như một nhà viết kịch đã nói: “Số ghế bao giờ cũng ít hơn số người muốn ngồi vào ghế”. Ngoài sự bất cập ấy, hẳn còn có những điều khiếm nhã khác mà chúng tôi không biết làm gì hơn ngoài lời xin lỗi, lời cảm ơn và mong được thể tất. Chúng tôi xin cố gắng chăm lo tờ Sông Hương luôn giữ được sắc thái riêng, có chất lượng để khỏi phụ lòng các bạn. Dù thế giới có biến đổi thế nào đi nữa thì Sông Hương vẫn mãi mãi muốn được thuỷ chung với bạn đọc, bạn viết của mình. Nhân dịp tết Nhâm Ngọ, Sông Hương trân trọng chúc Tết các bạn sang năm mới thêm dồi dào sức khoẻ, thành đạt và hạnh phúc. S.H
Các bạn đang cầm trên tay số kỷ niệm 25 năm thành lập Tạp chí Sông Hương. Mới ngày nào đó, một ngày hè tháng 6 năm 1983, trong niềm khao khát của không khí đổi mới trong văn học nghệ thuật, Tạp chí Sông Hương số 01 ra mắt và đón nhận sự hưởng ứng của công chúng. Đó là một sự khởi đầu được mong đợi từ hai phía: người viết và bạn đọc.
Gần đây đọc các bài của Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Hùng Vĩ bàn về ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến trên Văn nghệ (1), tôi thấy câu "Nước biếc trông như tầng khói phủ" trong bài Thu vịnh là câu thơ sáng rõ, không có gì khó hiểu mà lại được bàn nhiều. Mỗi người hiểu mỗi cách mà đều hiểu không đúng, chỉ vì không để ý rằng câu thơ này được viết theo lối "đảo trang".
(Nhân đọc: "Truyện Mã Phụng - Xuân Hương") * Truyện "Mã Phụng - Xuân Hương" trước đây còn được quen gọi dưới nhiều tên khác nhau, lúc là Vè Bà Phó, Vè Mã Phụng - Mã Long, khi là Thơ Mụ Đội, khi lại là Truyện Mã Ô - Mã Phụng v.v... là một tác phẩm văn học dân gian vốn được nhân dân Bình - Trị - Thiên rất yêu thích, phạm vi phổ biến trước Cách mạng Tháng Tám 1945 khá rộng.
Trên Tạp chí Sông Hương số tháng 3, nhân sự kiện Trần Hạ Tháp dành được giải A trong cuộc thi truyện ngắn của báo “Văn nghệ”, tôi vừa lên tiếng về sự “lặng lẽ” - một điều kiện cần thiết để làm nên tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, nay lại nói điều ngược lại, vậy có “bất nhất” có mâu thuẫn không?
Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.
Mang tên dòng sông duyên dáng thả mình bên thành phố Huế - SÔNG HƯƠNG, những trang tạp chí này là dòng chảy của những cảm xúc tươi đẹp trên “khúc ruột miền Trung” đất nước.
Từ xa xưa đến bây giờ, thường tục vẫn nói "sông có khúc người có lúc". Không biết Sông Hương bản báo năm rồi (năm tuổi 15) là sông hay là người? Có lẽ cả hai. Vậy nên cái khúc và cái lúc của nó đã chồng lên nhau - chồng lên nhau những khó khăn và tai tiếng!