Nghị quyết 23 của Bộ chính trị và sự phát triển Văn học - nghệ thuật Thừa Thiên Huế

15:20 18/05/2012

PHAN CÔNG TUYÊN

Văn học, nghệ thuật là một bộ phận quan trọng của nền văn hóa Việt Nam, có vai trò quan trọng trong việc “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.

Đồng chí Phan Công Tuyên phát biểu tại Hội thảo "Văn học nghệ thuật Huế trong dòng chảy văn hóa Huế" - Ảnh: husta.org

Để phát huy vai trò và vị thế của văn hóa trong tình hình mới, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 16/6/2008 về “tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”, nhằm phát huy vai trò, sứ mệnh cao quý của văn học, nghệ thuật và của đội ngũ văn nghệ sĩ, đóng góp vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Thừa Thiên Huế là một trong những trung tâm văn hóa, du lịch đặc sắc của cả nước, văn học nghệ thuật tỉnh nhà có những vị thế hết sức quan trọng, đang đứng trước những thời cơ, vận hội lớn, đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới.

Sau gần 4 năm thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường ảnh hưởng không nhỏ đến đất nước và tỉnh nhà. Song với bản lĩnh của các nghệ sĩ, đời sống văn học, nghệ thuật Thừa Thiên Huế diễn ra sôi động, tích cực vừa phát triển bề rộng, vừa đi vào chiều sâu đạt được những thành tựu có ý nghĩa.

Dòng chủ lưu của văn học, nghệ thuật Thừa Thiên Huế vẫn là chủ nghĩa yêu nước và cách mạng, tinh thần dân chủ, nhân văn, phản ánh hai cuộc kháng chiến, đất nước trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, với nhận thức sâu sắc, chân thực, đa diện và giàu chất nhân văn. Những góc khuất về tư tưởng và tâm hồn của hình tượng nghệ thuật được người nghệ sĩ đào sâu, phân tích có lý, có tình. Văn học, nghệ thuật có nhiều khởi sắc, văn nghệ sĩ Thừa Thiên Huế cơ bản bắt kịp với hơi thở của thời đại, sáng tạo nhiều tác phẩm có tính đa dạng và phong phú về đề tài, chủ đề và phong cách; có giá trị chân, thiện, mỹ đáp ứng yêu cầu thẩm mỹ của công chúng, đóng góp vào kho tàng văn hóa, văn học, nghệ thuật của dân tộc và quê hương.

Văn học, nghệ thuật vừa đẩy mạnh sáng tác, vừa tăng cường công tác lý luận phê bình định hướng sáng tác, hướng dẫn công chúng cảm thụ nghệ thuật, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, góp phần ngăn chặn, loại bỏ văn hóa độc hại thâm nhập vào nhân dân. Có nhiều cố gắng tiếp cận với các phong cách sáng tác hiện đại, những cách tân đúng hướng, đồng thời phê phán bệnh sơ lược, giản đơn, chạy theo thị hiếu tầm thường. Hàng năm, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế và các hội chuyên ngành tổ chức nhiều cuộc hội thảo. Qua đó, tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động của giới văn nghệ sĩ, khơi dậy nguồn cảm xúc nghệ thuật, đạt hiệu ứng trong từng tác phẩm, khiến dòng sáng tạo chủ lưu luôn đứng vững theo mạch nhân văn tiến bộ.

Số lượng hội viên tăng lên rõ rệt (Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật có trên 500 hội viên, với 8 hội chuyên ngành), trong đó có nhiều thế hệ người cầm bút vững vàng, có những văn nghệ sĩ có tầm vóc quốc gia và khu vực, bước đầu có hội viên trẻ, nhiều nghệ sĩ giàu sức sáng tạo, phản ánh sức sống và khả năng tập hợp, đoàn kết của tổ chức hội, đã tác động và bổ trợ lẫn nhau tạo nên một đội ngũ văn nghệ sĩ khá hùng hậu, có những cống hiến mới vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các thể loại âm nhạc, mỹ thuật, văn nghệ dân gian, múa, sân khấu, nhiếp ảnh, kiến trúc đã mở rộng biên độ phản ánh, nhiều bộ môn nghệ thuật truyền thống được sưu tầm lưu giữ, có thêm nhiều tác phẩm về các đề tài lịch sử, cách mạng, kháng chiến và đổi mới; nhiều đợt phong tặng danh hiệu, tước hiệu, nhiều huy chương, bằng khen... được tặng cho nhiều tác phẩm, tác giả tiêu biểu ở các lĩnh vực như:

Văn học có: Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Khắc Phê, Tô Nhuận Vỹ, Hồng Nhu, Trần Thùy Mai, Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Quang Hà, Nhất Lâm, Nguyễn Khắc Thạch, Ngô Minh, Hà Khánh Linh, Võ Quê...;

Nhiếp ảnh: Phạm Bá Thịnh, Nguyễn Văn Tý, Võ Đông Bảy, Trương Vững, Nguyễn Văn Thăng, Cảnh Tăng, Hoàng Xuân Trí, Lê Xuân Quý, Đồng Minh Đống, Ngô Thanh Minh, Nguyễn Văn Dũng, Hồ Ngọc Sơn...;

Âm nhạc: Việt Đức, Lê Phùng, Lê Anh, Dương Bích Hà, Vĩnh Phúc, Đoàn Lan Hương, Lê Nguyên Hồng...;

Mỹ thuật: Vĩnh Phối, Trương Bé, Tuyết Mai, Đặng Mậu Tựu, Hà Văn Chước, Ngô Tâm, Lê Văn Nhường, Nguyễn Thị Hòa, Nguyễn Hùng, Nguyễn Thiện Đức, Tô Trần Bích Thủy, Trần Ngọc Anh...;

Sân khấu: Ngọc Bình, Bạch Hạc, Kiều Oanh, Thanh Long, Phong Thủy, Thu Hằng, Đình Dũng, Đình Việt, Chánh Huế, Thanh Loan, Minh Tiến, Trương Tuấn Hải, Minh Phương, Trần Ngọc Tranh...;

Kiến trúc: Nguyễn Minh Dũng, Huỳnh Quang, Nguyễn Nguyến, Nguyễn Việt Tiến...;

Múa: Cao Chí Hải, La Cẩm Vân, Lê Diệu Hy...;

Văn nghệ dân gian: Lê Nguyễn Lưu, Triều Nguyên, Phan Thị Đào, Nguyễn Hữu Thông, Trần Đại Vinh, Trần Đức Anh Sơn, Trần Đình Hằng... Đồng thời, các hội viên có tên tuổi vẫn miệt mài sáng tác, cống hiến, các tác phẩm của họ gây tiếng vang về chủ đề chiến tranh cách mạng, hoặc tính nhân văn của xã hội, tiêu biểu như tác phẩm “Xa Hà Nội” của nhà văn Nhất Lâm, “Vùng lõm”của nhà văn Nguyễn Quang Hà, “Vùng sâu” của nhà văn Tô Nhuận Vỹ, “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê; “Trăng nơi đáy giếng” của nhà văn Trần Thùy Mai - chuyển thể kịch bản phim truyện nhựa được đánh giá cao tại Liên hoan phim Quốc tế tại Dubai; họa sĩ Nguyễn Thị Hải Hòa với tác phẩm đồ họa đạt giải triển lãm khu vực Mê Công; ca khúc “Ngẫu hứng Huế” của nhạc sĩ Lê Anh, phổ thơ Triệu Nguyên Phong tạo được sự đột phá, đổi mới trong ca từ, trong hòa âm, phối khí gây ấn tượng trong làng âm nhạc Việt Nam; vở ca kịch “Hồ Chí Minh - hồi ức màu đỏ”, đạo diễn nghệ sĩ ưu tú Ngọc Bình với sự tham gia diễn xuất của các hội viên thuộc Nhà hát Ca kịch Huế đạt nhiều giải thưởng cao của các ban, bộ, ngành Trung ương; công trình kiến trúc “Làng hành hương Huế” của nhóm kiến trúc sư Nguyễn Nguyến được bình chọn là một trong các tác phẩm resort-spa đẹp nhất Đông Nam Á; tác phẩm ảnh nghệ thuật “Trang sức” của tác giả Lê Quang Phú - bộ ảnh đen trắng tiêu biểu Việt Nam giành được World Cup của FIAP năm 2010 và tác phẩm “Tuổi thơ” của Ngô Thanh Minh đạt giải Nhất cuộc thi nhiếp ảnh toàn cầu với chủ đề bóng đá nhân sự kiện Worl Cup 2010 tại Nam Phi...

Một dấu ấn đậm nét, có sự đóng góp rất to lớn của văn nghệ sĩ, về hoạt động hưởng ứng các ngày lịch sử trọng đại của đất nước; phối hợp triển khai các chương trình văn hóa, nghệ thuật, lễ hội tổ chức ngày càng đa dạng, phong phú, với quy mô lớn, được tổ chức liên tục, đều khắp từ tỉnh đến cơ sở; các cuộc “Liên hoan nghệ thuật quần chúng”, Hội nghị “Biểu dương gia đình văn hóa”, “Ngày hội Văn hóa-Thể thao-Du lịch các dân tộc thiểu số”, Lễ hội “Đền Huyền Trân”, “Sóng nước Tam Giang”, “Thuận An biển gọi”, “Lăng Cô - Huyền thoại biển”, được tổ chức định kỳ; các kỳ Festival nghề truyền thống của thành phố Huế và đặc biệt 2 năm một lần tổ chức Festival Huế có tầm quốc gia và quốc tế khẳng định vị thế văn hóa và du lịch đặc sắc của Thừa Thiên Huế, nhằm phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam, bản sắc văn hóa Huế và giao lưu với tinh hoa văn hóa các nước, các châu lục trên thế giới.

Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa; triển khai thực hiện các chương trình trọng điểm về văn hóa, văn học nghệ thuật; quy hoạch và kế hoạch về phát triển văn hóa, văn học nghệ thuật được thực hiện trong từng chính sách và từng bước đi lên của tỉnh. Quần thể di tích Cố đô Huế - di sản văn hóa thế giới được tập trung đầu tư tôn tạo và phát huy. Nghệ thuật cung đình, nghệ thuật dân gian, lễ hội truyền thống được tiếp tục sưu tầm, bảo tồn, giới thiệu rộng rãi đến công chúng trong và ngoài nước. Hình thành Trung tâm văn hóa Huyền Trân, Trung tâm Nghệ thuật Lê Bá Đảng, nhà trưng bày tác phẩm nghệ thuật Điềm Phùng Thị, xây dựng Tượng đài Quang Trung - Nguyễn Huệ, phục dựng Khu chứng tích tội ác Chín Hầm, xuất bản Tập hồi ký “Thừa Thiên Huế - Mùa xuân đại thắng năm 1975”, tập sách ảnh “Thừa Thiên Huế - 35 năm xây dựng và phát triển”, thực hiện bộ phim truyện về đề tài chiến tranh và cách mạng “Dòng sông phẳng lặng”...

Đời sống văn hóa, văn nghệ phát triển lành mạnh, bản sắc văn hóa, thuần phong, mỹ tục mang tính đặc thù của con người xứ Huế được gìn giữ, nuôi dưỡng và vun đắp. Các đơn vị bảo tàng, thư viện, chiếu bóng, biểu diễn nghệ thuật, các đội thông tin lưu động đã tăng cường các hoạt động hướng về cơ sở. Hàng năm có hàng trăm buổi biểu diễn nghệ thuật, hàng ngàn buổi chiếu bóng và nhiều đợt thông tin, triển lãm lưu động phục vụ nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng ven biển, đầm phá... Nhiều câu lạc bộ, các tổ chức hoạt động văn hóa, nghệ thuật đã được thành lập, phục vụ tốt hơn nhu cầu hưởng thụ của nhân dân.

Giao lưu văn học, nghệ thuật được tăng cường, nhất là hoạt động quảng bá văn học, nghệ thuật trong tỉnh, trong nước, khu vực và quốc tế có bước khởi sắc, nhất là các kỳ Festival Huế. Thông qua các cuộc hội thảo, phối hợp quảng diễn các loại hình nghệ thuật, liên hoan nghệ thuật, cuộc thi, triển lãm khu vực và quốc tế, văn nghệ sĩ đã đem về nhiều giải thưởng cao, làm sống động bức tranh hội nhập văn hóa Huế trong thời kỳ mới.

Tuy nhiên, cùng với thành tựu đó, vẫn còn những hạn chế: văn hóa, văn học nghệ thuật phát triển chưa ngang tầm với tiềm năng, lợi thế của vùng đất; sự xâm nhập các sản phẩm văn hóa độc hại diễn biến phức tạp, nhất là trong thanh thiếu niên. Số lượng tác phẩm ngày càng nhiều, nhưng đạt chất lượng cao về tư tưởng và nghệ thuật còn khiêm tốn. Hoạt động giao lưu văn hóa, văn học, nghệ thuật chưa nhiều, quảng bá hình ảnh vùng đất, con người, văn học, nghệ thuật Thừa Thiên Huế với bạn bè quốc tế chưa thường xuyên, chưa phong phú.

Thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, của Bộ Chính trị về “tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”, các cấp lãnh đạo và đội ngũ văn nghệ sĩ tỉnh nhà có một sứ mệnh to lớn là tiếp tục phát triển sự nghiệp văn học nghệ thuật, phấn đấu có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao. Tôn trọng bảo đảm quyền tự do sáng tác, phát huy tính độc lập, khơi dậy mọi nguồn lực sáng tạo của văn nghệ sĩ với tấm lòng yêu nước nồng nàn, gắn bó máu thịt của nhân dân, nêu cao trách nhiệm công dân, phụng sự đất nước và dân tộc. Thực hiện chính sách đầu tư có hiệu quả, khuyến khích, tôn vinh các tài năng văn học, nghệ thuật, gắn liền với các đợt phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú, Nghệ nhân Nhân dân, Nghệ nhân Ưu tú. Có chính sách đào tạo, bồi dưỡng văn nghệ sĩ trẻ, các chuyên gia giỏi, chuyên gia đầu ngành trên các lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật.

Định hướng cơ bản của Đảng ta là tiếp tục nghiên cứu, đổi mới phát triển lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, nâng cao tính khoa học, tính thuyết phục, góp phần hướng dẫn điều chỉnh sáng tác, phê bình có hiệu quả. Đổi mới và nâng cao các hoạt động công bố, giới thiệu truyền bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật tốt phục vụ đông đảo nhân dân. Tổ chức nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc thành quả lý luận văn học, nghệ thuật đương đại để vận dụng sáng tạo, làm phong phú lý luận văn học, nghệ thuật tỉnh nhà.

Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật cần đề cao tính dân tộc, đa dạng và tạo sức hấp dẫn của các tác phẩm văn học, nghệ thuật mang bản sắc văn hóa Huế. Tổ chức dịch thuật các tác phẩm văn học, nghệ thuật có chất lượng tốt để quảng bá ra nước ngoài; chọn lọc giới thiệu tinh hoa văn hóa nhân loại, các trào lưu tư tưởng, nghệ thuật tiến bộ được công chúng quan tâm.

Nghị quyết Tỉnh ủy lần thứ 5 (khóa XIV) về “xây dựng Thừa Thiên Huế ngang tầm là một trung tâm Văn hóa, Du lịch đặc sắc của cả nước”, trong thời gian đến tỉnh ủy sẽ tập trung lãnh đạo và chỉ đạo các ngành chức năng triển khai xây dựng đề án các thiết chế văn hóa và các công trình văn hóa trọng điểm ở đô thị Huế và các đô thị vệ tinh như: Nhà hát Nghệ thuật Ca kịch Huế; Bảo tàng Lịch sử và Cách mạng; Trung tâm Hội nghị quốc tế, Trung tâm Điện ảnh; Vườn tượng quốc tế, Bảo tàng Dân gian Huế; Bảo tàng Thiên nhiên các tỉnh duyên hải miền Trung; Hệ thống tượng đài danh nhân, Cụm tượng đài An Hòa, Tượng đài 11 cô gái Sông Hương, xây dựng Bảo tàng Văn học - Nghệ thuật Thừa Thiên Huế và không gian lưu niệm một số văn nghệ sĩ tiêu biểu, đặc biệt là nhà thơ Tố Hữu...

Văn hóa Huế đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong lòng văn hóa của dân tộc, nhiều giá trị văn hóa được bảo tồn, kế thừa và phát huy làm cho vùng đất Huế ngày càng phong phú và đa dạng. Trong đó, văn học, nghệ thuật góp phần hình thành những đặc trưng văn hóa Huế giàu bản sắc, vừa có tác dụng định hướng, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng cao của nhân dân; tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, tiến bộ của nhân loại, đồng thời kiên quyết ngăn chặn, làm thất bại âm mưu thủ đoạn áp đặt, xâm lăng văn hóa của các thế lực thù địch. Cùng với thành tựu to lớn từ công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, đội ngũ văn nghệ sĩ Thừa Thiên Huế qua thử thách, đã tôi luyện trong thực tiễn cách mạng, trung thành với Đảng, với dân tộc, tâm huyết với nghề nghiệp, giàu tính sáng tạo, xứng đáng danh hiệu cao quý người nghệ sĩ - chiến sĩ, là lực lượng nòng cốt tạo nên nền văn học nghệ thuật cách mạng của dân tộc nói chung, Thừa Thiên Huế nói riêng được vinh danh trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

P.C.T
(SH279/5-12)








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...

  • Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.

  • 1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.

  • Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.

  • Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).

  • *Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.

  • Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...

  • Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.

  • I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.

  • Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.

  • Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.

  • I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.

  • Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.

  • Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.

  • Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...

  • Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.

  • Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

  • Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.

  • Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...

  • Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.