Kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tháng Mười Nga (7/11/1917 - 7/11/2017)
HÀ VĂN LƯỠNG
"Sông Đông êm đềm" trọn bộ 8 cuốn | M. Sô Lô Khốp, Nxb Văn hóa 1959 - 1960 - Ảnh: Sachxua.net
Sông Đông êm đềm - một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của nền văn học Nga viết về cuộc chiến tranh nội chiến. Đây là cuốn “sử thi nhân dân” hoành tráng tái hiện lại một giai đoạn lịch sử đầy oanh liệt, bi tráng của nhân dân Nga vào những thập niên đầu thế kỷ XX. Tác phẩm Sông Đông êm đềm đi vào lịch sử văn học Nga thế kỷ XX và văn học thế giới như một hiện tượng văn học đặc sắc khẳng định tài năng của Sôlôkhốp. Bên cạnh những yếu tố nghệ thuật khác góp phần làm nên giá trị lớn lao của bộ sử thi đồ sộ Sông Đông êm đềm như sự kết hợp giữa những yếu tố sử thi với bi kịch, hài kịch và châm biếm; nghệ thuật kết cấu cốt truyện; xây dựng chi tiết, tình tiết; việc sử dụng các Folklore..., việc phân tích tâm lý, đào sâu vào tâm hồn nhân vật, lý giải các nguyên nhân dẫn đến hành động của họ thông qua những biện pháp nghệ thuật của nhà văn đã trở thành một phương tiện hữu hiệu trong việc tái hiện chiều sâu nội tâm nhân vật. Trong cuốn Nghệ thuật của Mikhaiin Sôlôkhốp, nhà nghiên cứu phê bình văn học Nga A.F.Briticôp khẳng định rằng: “Sau Tônxtôi, Sôlôkhốp là người biểu hiện rõ nhất và sâu nhất tâm trạng của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Trong các tiểu thuyết của ông, nghệ thuật khắc họa bước ngoặt trong cuộc sống nhân dân chính là thành tựu vĩ đại nhất của văn học Nga - Xô viết và có ảnh hưởng đối với đời sống xã hội chúng ta, đến mức có thể so sánh với tiếng nói mạnh mẽ của L.Tônxtôi tác động vào độc giả nước Nga”.[1 - 74]
1. Là một thiên anh hùng ca về số phận của dân Côdắc trong thời kỳ Cách mạng Tháng Mười và nội chiến, Sông Đông êm đềm đã tập trung xây dựng các nhân vật ở hai trận tuyến cách mạng và phản cách mạng trở thành những điển hình sâu sắc, trong đó nổi bật là nhân vật Grigôri, Ăcxinhia, Natalia và Côsêvôi... Trước hết, khi xây dựng nhân vật, nhà văn xác định rõ bản chất giai cấp, tâm lý xã hội của nhân vật. Chính đặc điểm mang tính chính trị này sẽ là điểm cơ bản, quyết định toàn bộ bản chất nhân vật trên suốt con đường đi của họ trong tác phẩm. Không phải ngẫu nhiên mà trong Sông Đông êm đềm, nhà văn phản ánh và khai thác một cách sâu sắc đặc điểm giai cấp và đặc trưng tâm lý nhân vật. Đây là điểm xuất phát cho con đường đi khác nhau của các nhân vật chính từ Cách mạng Tháng Mười đến cuộc chiến tranh nội chiến, đồng thời giải thích vì sao nhân vật này đứng về phía Cách mạng, nhân vật kia đi theo bọn Bạch vệ và có người dao động giữa hai trận tuyến để cuối cùng dẫn đến bi kịch.
Xuất thân là người thuộc tầng lớp bần cố nông Côdắc, Côsêvôi mang bản chất tốt đẹp của nhân dân lao động. Cách mạng tháng Mười thành công, những người như Côsêvôi được giải phóng khỏi sự bóc lột của bọn địa chủ ở nông thôn và họ có ruộng vườn để cày cấy và sinh sống. Vì vậy, khi chiến tranh nội chiến bùng nổ, Côsêvôi nhanh chóng đứng vào hàng ngũ những người Xô viết để chống lại bọn phản cách mạng, bảo vệ quyền lợi giai cấp và quyền lợi cá nhân. Và sau này, Côsêvôi trở thành một đảng viên trung kiên, là Chủ tịch Xô viết thôn.
Cũng thế hệ với Côsêvôi, nhưng Lítxnhitxki và Corsunốp là con của gia đình địa chủ và phú nông, nên hai nhân vật này thuộc thành phần giai cấp bóc lột. Cách mạng đã lật đổ chế độ Nga hoàng, xóa bỏ ách áp bức của địa chủ ở nông thôn. Cho nên khi bùng nổ nội chiến, Lítxnhitxki, Corsunốp và những người thuộc tầng lớp phú nông đứng về phía Bạch vệ chống lại chính quyền Xô viết. Chính vì thế, cuộc đấu tranh giai cấp trong nội chiến diễn ra rất quyết liệt và đẫm máu.
Những người thuộc thành phần trung nông Côdắc như Grigôri thì lại luôn dao động giữa hai trận tuyến cách mạng và phản cách mạng. Tính chất hai mặt của người nông dân (mặt lao động và mặt tư hữu) đặc biệt đối với tầng lớp trung nông Côdắc biểu hiện phức tạp trong Cách mạng và nội chiến. Bản chất giai cấp của tầng lớp này rất bấp bênh về thái độ chính trị và chọn đường đi trong thời đại bão táp cách mạng. Những người trung nông là tầng lớp giữa của giai cấp nông dân Côdắc vùng sông Đông. Kinh tế không ổn định dẫn đến lập trường tư tưởng hay dao động, “họ đã nghiêng ngả, đang nghiêng ngả và còn nghiêng ngả... Chính những sự nghiêng ngả của nông dân, đại biểu chủ yếu của quần chúng lao động tiểu tư sản đã quyết định vận mệnh của chính quyền Xô viết cùng chính quyền của bọn Côntrăc, Đênhikin. Nhưng cái “cuối cùng” ấy đã phải trải qua một giai đoạn đấu tranh gay go và khảo nghiệm nặng nề khá lâu dài” (V.I.Lênin). Về bản chất giai cấp, Grigôri Mêlêkhốp thuộc gia đình trung nông điển hình. Trong bão lửa khốc liệt của cách mạng và nội chiến, sự phân hóa trận tuyến diễn ra rất rõ ràng, vì đó là cuộc “sàng lọc chất liệu con người” với quy mô trong cả nước. Mặt lao động kéo Grigôri về phía cách mạng (Hai lần Grigôri tham gia Hồng quân), ngược lại mặt tư hữu lại kéo chàng đứng về phía phản cách mạng (Hai lần tham gia quân Bạch vệ và bọn phiến loạn). Nếu khi trở thành chiến sĩ Hồng quân, chiến đấu để bảo vệ chính quyền Xô viết, Grigôri thực sự phát huy những mặt tốt trong bản chất lao động của mình, thì việc Grigôri đi theo Bạch vệ, làm sư đoàn trưởng lực lượng phiến loạn là xuất phát từ lý do sợ cách mạng đe dọa, xóa bỏ quyền tư hữu của mình. Như vậy, Grigôri không chỉ là người trung nông do bản chất giai cấp mà dao động, ngả nghiêng trong cách mạng và nội chiến, mà còn là một người Côdắc điển hình, biểu hiện tập trung và đầy đủ tính chất mâu thuẫn của giai cấp mình. Nói như Sôlôkhốp, Grigôri Mêlêkhốp lớn lên cùng với bầu sữa mẹ và anh ta cũng “bú” luôn cả mọi thành kiến của dân Côdắc được tiếp nối qua nhiều thế hệ. Những yếu tố trong tính cách của Grigôri như yêu lao động, chân thành, bộc trực, ghét áp bức, tinh thần dũng cảm, yêu tự do và tinh thần dân chủ đã làm nên một Grigôri Mêlêkhốp rất chân thực, sinh động.
Khi xây dựng nhân vật, nhà văn M.Sôlôkhốp đã nêu lên và khẳng định bản chất giai cấp của các nhân vật. Chính việc xác định nguồn gốc chính trị mang tính giai cấp của các nhân vật trong tác phẩm làm cơ sở cho tác giả lý giải mọi biểu hiện những hành động chọn đường của các nhân vật chính.
2. Nhận xét về tài năng nghệ thuật của M.Sôlôkhốp, nhà lý luận phê bình văn học S.O.Melich cho rằng: “Sức mạnh của bất kỳ nhà văn nào cũng được thể hiện trước hết ở chỗ biết phát hiện tính cách con người, xây dựng những hình tượng sinh động, có nghệ thuật, có tài trong việc thể hiện đặc điểm tâm lý xã hội của nhân vật” [2 - 197]. Các tính cách nhân vật trong Sông Đông êm đềm được nhà văn phân tích, mổ xẻ đến tận chiều sâu nội tâm của họ. Phân tích các trạng thái tâm lý nhân vật thông qua những suy nghĩ độc thoại, đối thoại, hành động; kết hợp nhiều giọng điệu trong tác phẩm và mô tả thiên nhiên nhằm bộc lộ tâm lý nhân vật... là những biện pháp nghệ thuật mà nhà văn sử dụng trong Sông Đông êm đềm.
Nhà văn đặt nhân vật vào dòng xoáy của các sự kiện lịch sử - xã hội mang tính bước ngoặt thời đại, (Cách mạng Tháng Mười 1917) để nhân vật chịu sự tác động của hoàn cảnh, bộc lộ đầy đủ bản chất tính cách của mình. Quá trình tâm lý của các nhân vật trong Sông Đông êm đềm diễn ra trong dòng chảy của không gian và thời gian với những sự kiện lớn lao. Tính cách các nhân vật Grigôri, Ăcxinhia, Xtêpan, Côsêvôi, Natalia... luôn được nhà văn phản ánh trong sự vận động, lưu chuyển. Những xung đột của thời đại bão táp cách mạng và nội chiến như cơn lốc cuốn hút những nhân vật của Sôlôkhốp vào tâm điểm mang kịch tính cao. Điều này tạo nên những cơn bão tố trong lòng nhân vật Grigôri. Khi đứng trong hàng ngũ Hồng quân, Bạch vệ, theo quân phiến loạn hay đi với bọn phỉ Phômin, Grigôri bao giờ cũng đắn đo suy nghĩ. Những dòng suy nghĩ và độc thoại của Grigôri nói lên tâm lý phức tạp nhưng phong phú của chàng, đồng thời khẳng định rõ bản chất trung thực, mang tính chất của dân trung nông Côdắc. Khi còn ở trong hàng ngũ quân phiến loạn, khi nghe tin những người bạn thân thiết của mình là Côsêvôi, Stôcman, người mất tích, người bị giết chết bởi bàn tay bọn phiến loạn, Grigôri đau đớn nói lên suy nghĩ của mình: “May ra Misca và Ivan Alếchxêep còn sống... Tìm hiểu xem ai giết Pêtơrô... và phải cứu sống Misca, Ivan! phải cứu... Đã có chuyện đổ máu giữa bọn mình với nhau, nhưng các cậu ấy đâu có phải là người xa lạ”. Nhờ những dòng độc thoại này mà chúng ta hiểu được bản chất con người Grigôri, đó là người thẳng thắn giàu lòng nhân ái và gắn bó với bạn bè trong những lúc thường cũng như lúc hiểm nguy. Và chàng đau đớn đến tím mặt, phóng lên ngựa, phi suốt ngày đêm để đến nơi bạn bè mình gặp nạn đến nổi làm chết con ngựa. Một lần trong trận chiến với Hồng quân, Grigôri say máu phi ngựa đuổi theo một người lính Hồng quân trẻ đang chạy trốn và vung gươm chém xẻ đôi anh lính trẻ này. Cái chết của người lính Hồng quân dưới lưỡi gươm của mình đã làm cho Grigôri dằn vặt, giằng xé đau đớn trong nội tâm và giúp chàng thức tỉnh. Cũng vì vậy, sau đó, Grigôri chán ghét Bạch vệ và chạy về với Hồng quân.
Trong nghệ thuật phân tích tâm lý của Sôlôkhốp, ông đã tiếp thu những điểm cơ bản trong nghệ thuật của A.Puskin, A.Chêkhôp, đặc biệt là “biện chứng tâm hồn” của L.Tônxtôi. Nhà văn, một mặt dùng lời tác giả để triển khai, trình bày đời sống nội tâm nhân vật như L.Tônxtôi, mặt khác ông xích gần với phong cách mô tả chi tiết bề ngoài, “hành vi hướng nội” như A. Chêkhôp. Sự kết hợp này tạo nên những đoạn mô tả nhân vật rất sinh động, và lời tác giả cùng độc thoại nội tâm nhân vật hướng vào việc bộc lộ tính cách nhân vật. Trong tác phẩm, nhà văn thường dùng lời mô tả của tác giả (lời kể) mang một sắc thái ngữ điệu riêng biệt nên có ý nghĩa đa chiều. Chính ngữ điệu trong lời tác giả đã làm cho người đọc thấy rõ sự bộc bạch tâm trạng của nhân vật. Hai giọng điệu (giọng điệu tác giả và giọng điệu nhân vật) trong tác phẩm được nhà văn kết hợp trong việc khắc họa xung đột tâm lý của nhân vật Grigôri. Đoạn nhà văn mô tả thái độ và hành động của Grigôri khi bắt được một tù binh Hồng quân thể hiện một quá trình tâm lý mâu thuẫn trong con người Grigôri. Ban đầu, Grigôri ra lệnh giết và sau đó lập tức thay đổi ý định và ra lệnh tha người chiến sĩ Hồng quân đó: “... Cho thả tù binh ra, cho nó một giấy thông hành - Không nhìn những bọn Côdắc, Grigôri nói và trở lại gian phòng đứng trước một tấm gương cũ kỹ, vung hai tay lên với vẻ phân vân. Chàng không thể tự giải thích cho mình là vì sao mình lại ra lệnh và bảo cho thả tù binh (...). Chàng hơi khó chịu trước lòng thương hại của mình. Tình cảm xâm nhập vào ý thức chàng và khiến chàng phải thả kẻ địch ra không phải là lòng thương hại bản năng thì là cái gì? Đồng thời chàng lại cảm thấy dễ chịu và vui thích... Sao lại có thể xẩy ra như thế được? Chàng không thể tự trả lời câu hỏi đó...”.
Ở đoạn văn trên, chúng ta không thấy rõ lời độc thoại nội tâm của nhân vật một cách trực tiếp như trong tác phẩm của L.Tônxtôi (Chiến tranh và hoà bình, Anna Karênina, Phục sinh...) mà chỉ là lời của tác giả. Nhưng giọng điệu kể chuyện và mô tả của Sôlôkhốp đã mang một ngữ điệu khác hàm chứa cả giọng điệu nhân vật. Điều này thể hiện một trạng thái tâm lý rất phức tạp, giằng co, sự đấu tranh trong nhân vật Grigôri. Về bổn phận người lính, người chỉ huy, Grigôri muốn ra lệnh giết kẻ thù, nhưng lương tâm và tình cảm thì chàng lại cho thả tù binh ra. Sự phân thân này trong tâm lý nhân vật càng làm cho Grigôri trở thành một điển hình sinh động của người lính trung nông Côdắc, một nhân vật phức tạp, nhưng chân thực và hấp dẫn.
Trong phân tích tâm lý nhân vật, mỗi nhà văn đều hướng đến một số biện pháp nghệ thuật cụ thể nhằm đào sâu nội tâm của nhân vật. Các trạng thái tâm lý có thể diễn ra và biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Đối với L.Tônxtôi, “biện chứng pháp tâm hồn” là một đặc điểm cơ bản trong nghệ thuật tâm lý của nhà văn. Chú ý đến quá trình vận động và phát triển của tâm hồn nhân vật trải qua các thời điểm khác nhau dưới những tác động của các yếu tố thời đại, lịch sử, xã hội và hoàn cảnh cá nhân, L.Tônxtôi đã xây dựng được những nhân vật đặc sắc về bản chất tâm lý như Anđrây Bôncônxki, Natasa, Pie Bêdukhốp (Chiến tranh và hòa bình); Nhêkhliuđốp, Matxlôva (Phục sinh), Anna Karênina, Vrônxki (Anna Karênina). Nhưng dường như L.Tônxtôi chỉ chú ý đến quá trình diễn biến tâm lý mang tính biện chứng bên trong tâm hồn mà chưa quan tâm đúng mức đến sự biểu hiện của nó qua hành vi bên ngoài. Ngược lại, sáng tạo về nghệ thuật tâm lý của M.Sôlôkhốp là ở chỗ, trong khi nhà văn phân tích nội tâm của nhân vật, ông đã chú ý đến sự thể hiện các trạng thái đó không chỉ qua độc thoại nội tâm mà chính là qua hành vi và biểu hiện bên ngoài. Thủ pháp mô tả hành vi biểu hiện bên ngoài của Sôlôkhốp có giá trị như sự phân tích trực tiếp bản thân tâm lý nhân vật. Điều này đối với nhà văn Sôlôkhốp cũng góp phần không nhỏ vào việc khai thác nội tâm nhân vật từ nhiều khía cạnh tạo nên một giai điệu trọn vẹn trong hành động tâm lý.
Ở các nhân vật Grigôri, Ăcxinhia, đặc biệt là Xtêpan Axtakhốp, nhà văn thường sử dụng biện pháp trên. Nhà văn mô tả chi tiết, khi trở về nhà, Xtêpan nhận ra Ăcxinhia đã bỏ đi cùng với Grigôri: “Hắn quẳng cây đèn trên tay xuống, không tự chủ được nữa... Hắn giật thanh gươm trên tường xuống, mấy ngón tay nắm cán gươm chặt quá tím cả lại. Hắn lấy mũi gươm xốc chiếc áo xanh phớt hoa vàng nhạt của Ăcxinhia, hất tung lên, vung gươm chém phăng làm đôi. Mặt hắn xám ngoét đi, nỗi đau khổ đã làm hắn trở nên man rợ như một con chó sói. Hắn tung những mảnh áo bị chém nát lên đầu, lưỡi gươm mài sắc nhọn múa vù vù, chém ngang, chém dọc. Rồi hắn vứt phăng dây ngũ buộc gươm, quẳng thanh gươm vào xó nhà, bước vào bếp, ngồi xuống cạnh bàn. Hắn ngoẹo đầu xuống, những ngón tay rắn như thép run bần bật, xoa mãi không thôi trên mặt bàn bẩn thỉu”. Ở đây, nhà văn không phân tích trực tiếp diễn biến tâm lý của Xtêpan mà qua những chi tiết, hành động và dáng vẻ bề ngoài của nhân vật đã phơi bày một cách sâu sắc và đầy đủ sự ghen tuông, căm giận, đau xót, tủi hổ của hắn. Một loạt hành động liên tiếp diễn ra từ việc “quẳng cây đèn”, “giật thanh gươm”, “vung gươm chém chiếc áo” đến “múa gươm vù vù” và “quẳng thanh gươm vào xó nhà”, “ngoẹo đầu xuống” xoa tay “trên mặt bàn bẩn thỉu” nói lên nỗi căm giận và đau đớn đến tột cùng đang diễn ra trong con người Xtêpan. Những hành động đó vừa nhằm biểu hiện nội tâm nhân vật, đồng thời cũng là một cách giải tỏa sự đau khổ đang hành hạ Xtêpan.
3. Trong các tác phẩm của Sôlôkhốp, đặc biệt ở Sông Đông êm đềm, thiên nhiên được miêu tả không chỉ là những bức tranh trữ tình đủ sắc màu nói lên cái đẹp của cảnh vật, đất nước, mà nó còn là một phương tiện nghệ thuật nhằm bộc lộ tâm hồn nhân vật. Nhận xét về điều này, trong cuốn Mikhaiin Sôlôkhốp (Tuyển tập những bài viết và tư liệu) Nxb. Lêningrat 1956, B.Larin cho rằng: “Sẽ không thể phai mờ những so sánh trong những trang miêu tả của Sôlôkhốp về những khoảng bao la của thảo nguyên về những ngọn đồi và thung lũng nhỏ ở vùng người Côdắc, về những vách bờ dựng đứng và những vườn anh đào ở hạ lưu sông Đông. Thiên tài của nghệ sĩ sáng tạo nên những bức tranh phong cảnh độc đáo, tuyệt vời, bất tử” [1 - 844]. Phong cảnh thiên nhiên góp phần thể hiện và đào sâu hơn tâm trạng của nhân vật, phơi bày những bí ẩn kỳ diệu trong tâm hồn con người.
Lần đầu tiên ra khỏi nhà sau một cơn ốm nặng, tâm trạng của Ăcxinhia vui vẻ phấn chấn và trước mắt nàng là một bức tranh thiên nhiên trữ tình, lãng mạn: “... Những chiếc lá to tướng vốn trước đây màu xanh đang uể oải che ánh mặt trời cho một cuống hoa thâm thấp và mụ mẫm mang đầy những đóa hoa trắng như tuyết. Nhưng những lá cây phủ đầy sương và phủ màu sắt gỉ đã héo rồi, và chỗ rữa ăn lan gần đến tận cành hoa; hai lá hoa ngoài nhất cũng đã nhăn nhúm lại và đen sạm, chỉ có phần trên của hoa lung linh trong những giọt sương, rồi thình lình bừng lóe lên một màu trắng đẹp kỳ lạ dưới ánh mặt trời. Và không biết tại sao trong giây phút ngắn ngủi ấy, khi nhìn hoa qua màng nước mắt, ngửi thấy mùi hương hăng hắc của nó, Ăcxinhia chợt nhớ lại tuổi trẻ, nhớ lại toàn bộ cuộc đời dài và hiếm có những niềm vui của mình”. Bức tranh thiên nhiên trên không chỉ nói lên tài năng quan sát, mô tả một cách tinh vi và sâu sắc của nhà văn mà nó thể hiện tâm trạng của Ăcxinhia, gợi lên những cái liên quan đến cuộc đời của nàng trong quá khứ, hiện tại và hé mở đoạn đường tương lai đầy bất hạnh của nhân vật. Đóa hoa đẹp, lung linh nhưng đã bắt đầu tàn úa, sự bừng lên đẹp lạ thường, dưới ánh mặt trời nhưng rồi sẽ tàn phai cũng giống như số phận của Ăcxinhia. Sau một trận ốm thập tử nhất sinh, sức khỏe và nhan sắc của Ăcxinhia đã cạn kiệt, phai tàn và niềm vui trỗi dậy của nàng sau đó chỉ có thể là tia sáng cuối cùng trong con đường hầm không có lối thoát. Và nàng phải kết thúc cuộc đời bằng cái chết bi thảm khi đang trên đường cùng Grigôri trốn khỏi làng theo tiếng gọi của tình yêu lứa đôi. Mô tả đóa hoa, Sôlôkhốp giúp cho Ăcxinhia nhớ lại tuổi trẻ đẹp nhưng bất hạnh, hiện tại đau buồn, không hạnh phúc và phác họa một tương lai bi thảm sắp tới. Như vậy, thiên nhiên ở trong sáng tác của Sôlôkhốp không chỉ có giá trị tự nhiên, là “duy mỹ”, mà còn nói hộ tâm lý của nhân vật.
Ở một bức tranh khác, cảnh vật được Sôlôkhốp miêu tả đặt bên cạnh nhân vật Grigôri nhằm khơi sâu tâm trạng của chàng và thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm: “... Loài hoa này mọc trên vùng đất hoang, len lỏi giữa những ngọn cỏ đônich khô như một đường viền bằng hoa mọc quanh những bờ ruộng bỏ hoang từ lâu, thậm chí trên mảnh đất hoang cứng như đá và xuyên qua đám cỏ khô còn lại từ năm ngoái, loài hoa đó ngắm nhìn thế giới với đôi mắt biếc xanh trong trẻo như mắt trẻ thơ (...). Ở sườn khe và trên mặt đất mặn những bông hoa tuy-líp lộng lẫy như trong thần thoại đã vươn mình phô dưới ánh mặt trời những cánh hoa đỏ, vàng và trắng (...). Từ những lớp tuyết hơi lạnh bay sang và càng làm nổi rõ mùi hương lan tím, cái mùi phảng phất u buồn như một hồi ức về cái gì rất quý mà đã qua lâu rồi”. Cảnh vật ở đây hòa quyện với những tâm tư dằn vặt của Grigôri trước những biến động dữ dội của thời cuộc. Thiên nhiên dường như cũng đồng cảm với cảnh ngộ éo le đầy mâu thuẫn của Grigôri và cũng hé mở những kết cục bi kịch sắp đến với chàng.
Là người tiếp tục truyền thống phân tích tâm lý nhân vật từ trong văn học Nga thế kỷ XIX mà đại biểu lớn nhất là L.Tônxtôi, M.Sôlôkhốp đã có những đóng góp và cách tân mới mẻ trong lĩnh vực này. Xác định bản chất tâm lý nhân vật; phân tích, mổ xẻ quá trình tâm lý diễn ra thông qua các thủ pháp nghệ thuật; xem thiên nhiên là một yếu tố quan trọng góp phần thể hiện tâm hồn nhân vật..., đó là những đặc điểm cơ bản trong hệ thống thi pháp của Sôlôkhốp. Vì vậy, thế giới nghệ thuật của Sôlôkhốp nói chung và trong Sông Đông êm đềm nói riêng như một tấm thảm đầy sắc màu rực rỡ cuốn hút người đọc và nó mãi mãi là niềm đam mê khám phá của giới học thuật trong và ngoài nước.
H.V.L
(TCSH345/11-2017)
------------------
1. Đỗ Hồng Chung, Nguyễn Kim Đính và các tác giả khác, Lịch sử văn học Nga, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1997.
2. A.F.Briticôp, Nghệ thuật của Mikhaiin Sôlôkhốp, Nxb. Khoa học Mátxcơva - L, 1964 (Tiếng Nga).
3. S.O.Melich, Lịch sử văn học Xô viết (tập 2), Nxb. Văn hóa - Viện Văn học, Hà Nội, 1961.
4. (Những dòng in nghiêng được trích dẫn từ:) M.Sôlôkhốp, Sông Đông êm đềm (8 tập), Nxb. Văn học, H, 1993.
NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.
HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.
NGUYỄN VĂN THUẤN (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.
PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.
THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.
HÀ ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.
LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.
BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.
HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.
LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.
TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.
HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.
NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.
NGUYỄN KHẮC PHÊ Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).
PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.
TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H
MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.