Ngày cuối năm và công tác chuẩn bị cho năm mới của các vua triều Nguyễn

08:52 26/01/2017

THƠM QUANG  

Tết Nguyên Đán luôn là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống của dân tộc Việt Nam. Tết Nguyên Đán là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới, giữa một chu kỳ vận hành của đất trời, vạn vật cỏ cây. Trong đó ngày cuối cùng của năm hay còn gọi là ngày 30 tết là một ngày đặc biệt.

Đoàn cung nghinh. Ảnh PBT

Vào dịp này, trong hoàng cung triều Nguyễn thật rộn ràng, náo nức. Vua quan ai nấy vui mừng, tất  bật chuẩn bị đón một mùa  xuân về. Mộc bản triều Nguyễn - Di sản tư liệu thế giới còn lưu lại khá nhiều chi tiết thú vị về ngày cuối cùng của năm trong hoàng cung triều Nguyễn.

Ngày 30 Tết, triều Nguyễn sẽ cử hành lễ Cáp hưởng, đây là một nghi lễ hết sức quan trọng đối với ngày tết cận kề. Lễ Cáp hưởng tức là lễ mời các vị tiên đế về cùng “ăn Tết” với triều đình. Đích thân nhà vua đến Thái Miếu hoặc Thế Miếu làm chủ lễ. Triều Nguyễn quy định những năm Sửu, Mão, Tị, Mùi, Hợi thì vua thân đến Thái Miếu. Còn những năm Tý, Dần, Ngọ, Thân, Tuất thì vua thân đến Thế miếu làm lễ.

Mộc bản triều Nguyễn: Ngày 30 tết, các vua triều Nguyễn bắt đầu cho dựng nêu với ý nghĩa nêu là tiêu biểu cho năm mới
Mộc bản triều Nguyễn: Trong lễ Trừ tịch, các vua triều Nguyễn dâng lên bàn thờ tổ tiên bằng mâm cỗ chay


Trong ngày cuối cùng của năm, lễ Tuế trừ cũng được diễn ra. Nếu năm đó có tháng đủ, thì triều Nguyễn sẽ tổ chức vào ngày 30; còn tháng thiếu thì vào ngày 29 tháng chạp. Để chuẩn bị cho buổi lễ, trước đó, phủ Tôn Nhân hội bàn với bộ Lễ dâng sớ xin cho hoàng tử, hoàng thân được kiêm sung việc tế. Đến ngày lễ, theo vua Minh Mạng thì “tế tự càng nên vào lúc sáng sớm, mới bày tỏ lòng cung kính”. Vì vậy, mà trống điểm canh năm, sau khi bắn súng, hữu ty bày đặt cỗ bàn, vàng bạc, hương đèn, các hạng lễ phẩm ở các miếu đều đủ cả, biền binh thì bày hàng lỗ bộ, nghi trượng, nhã nhạc ở hai bên tả    hữu trước sân miếu, hoàng tử, hoàng thân đều mặc áo thêu  con mãng xà, chia đến các miếu đứng chờ làm lễ Tuế trừ. Tế một tuần rượu và không có văn khấn.

Sau lễ Cáp hưởng và lễ Tuế trừ, triều đình Nguyễn sẽ tiến hành làm lễ Thướng tiêu(1) (dựng cây nêu) ở trước điện Thái Hòa. Khâm Thiên Giám được giao nhiệm vụ xem xét, chọn giờ lành để bộ Lễ dựng nêu. Khi cây nêu của vua được dựng lên thì các dinh thự, chùa chiền mới được dựng lên theo.  Năm 1876, vua Tự Đức quy  định cứ tới giờ Thìn (8 - 10 giờ sáng) ngày cuối năm, tất cả cây nêu sẽ được dựng lên khắp Kinh thành. Giải thích về việc tại sao lại có tục dựng nêu trong ngày 30 Tết. Vua Minh Mạng đã lý giải rằng: “Người xưa đặt ra lễ này cũng là lấy nghĩa rằng nêu là tiêu biểu cho năm mới”.

Đến tối 30 tết, bên trong Hoàng thành không khí thật ấm cúng, trang nghiêm. Tối đó, toàn Kinh thành đốt pháo lên nêu. Ở trong triều, quan Hữu ty chuẩn bị thiết đại triều ở điện Thái Hòa và thiết thường triều ở điện Cần Chánh. Ngự tọa (ngai vàng) thiết ở chính thất điện Thái Hòa, phía trước có đặt hoàng án với đỉnh trầm ngút khói để thêm phần trang trọng cho buổi lễ. Chỉ có quan lại thuộc hàng nội thân mới được “thượng điện”. Bá quan văn võ từ tam phẩm trở lên đứng ở thềm điện, từ tứ phẩm trở xuống chầu dưới sân rồng.

Theo quy định của triều Nguyễn, trong đêm 30, mồng 1 và mồng 2 Tết, các cửa Tả túc, Hữu túc của cung thành, các cửa Tả đoan, Hữu đoan của hoàng thành, các cửa Thể Nguyên, Quảng Đức, Chính Nam, Chính Đông, Chính Tây, Chính Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc của Kinh thành và Thủy Quan cầu Thanh Long, đều sai được mở rộng để tỏ rằng vệ Kim ngô không cấm. Bên cạnh đó, ở ngoài cửa Hữu Túc mỗi khắc phóng 10 phát ống lệnh, mỗi phát 5 đồng 5 phân thuốc nổ. Ghi làm lệ. Còn ở sân điện Thái Hòa, mỗi khắc, nổ 20 tiếng ống lệnh, suốt đêm đủ 1.000 tiếng giòn tan. Còn các đêm mồng 1 mồng 2 năm mới thì thôi.

Và một điều không thể thiếu trong ngày cuối cùng của năm đối với các vua triều Nguyễn đó là lễ Trừ tịch. Dưới triều Nguyễn, lễ Trừ tịch được thực hiện vào tối 30 Tết”. Theo Mộc bản triều Nguyễn, lễ Trừ tịch vua Gia Long sẽ đến nhà Thái miếu làm lễ, còn các quan văn võ từ ngũ phẩm trở lên được giao nhiệm vụ bồi tế. Những quan viên này khi xong việc thường được vua ban thưởng: “Thưởng bạc cho các quan viên túc trực: các quan văn võ từ tứ phẩm trở lên, đêm Trừ tịch túc trực ở hai bên công thự tả hữu. Vua sai Chưởng Thần võ quân Phạm Văn Nhân, Đô thống chế Thị trung Nguyễn Văn Khiêm, Thượng bảo khanh Trần Đình Trưng lập danh sách dâng lên. Ngự phê ban thưởng từ trên nhất phẩm đến tòng tứ phẩm, theo thứ bậc khác nhau”.

Ý nghĩa của lễ này là đem bỏ hết những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp tới. Mâm cổ cúng lễ “Trừ tịch” mà các vua triều Nguyễn dâng lên bàn thờ tổ tiên thường bằng đồ chay. Trong Mộc bản sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 237, mặt khắc 22 có chép: “Lễ Trừ tịch, Triệu miếu, Thái miếu, Hưng miếu, mỗi miếu trà quả 1 mâm hạng nhất. Thế miếu bàn chính, trà quả hạng nhất 2 mâm. Bàn tả, bàn hữu, mỗi bàn trà quả hạng nhất 1 mâm. Thờ phụ ở Thái miếu, Thế miếu gồm 25 bàn, mỗi bàn trà quả hạng ba 1 mâm, 3 bàn cúng Thổ ông trà quả hạng ba 1 mâm”.

Bên cạnh đó, trên bàn thờ mỗi vị còn có đồ mã, mũ đai áo xiêm bằng giấy và các hạng vàng bạc, tiền giấy, kho giấy, đợi ngày lễ xong đem đến lò đốt đi, để thấu đến thần minh mà tỏ kính ý. Và sau khi lễ cúng giao thừa ở các miếu xong, triều Nguyễn có bắn ống lệnh và đốt pháo giấy. Đây là tập tục có từ rất lâu đời, theo người xưa đốt pháo ống tre là để trừ lệ khí và đón phúc xuân đến.

Có thể nói, ngày 30 Tết trong hoàng cung triều Nguyễn thật đặc biệt. Đó là ngày mà các vua triều Nguyễn thực hiện nhiều nghi lễ thiêng liêng và trang trọng nhằm mục đích tiễn đưa năm cũ và chào đón một năm mới đến. Triều Nguyễn tuy không còn nữa, nhưng tất cả những sinh hoạt lễ tết ấy vẫn còn tìm thấy trong sử sách, đặc biệt là trong Mộc bản triều Nguyễn - Di sản tư liệu thế giới. Đó cũng là một phần trong di sản phi vật chất của chúng ta và trở thành truyền thống tốt đẹp của người dân đất Việt hôm nay.

T.Q
(TCSH336/02-2017)


-----------------
(1) Lễ Thướng tiêu: ngày xưa làm lễ dựng nêu bằng cây tre trong sân trước nhà, buộc những  phù phép, vàng giấy trên cây nêu để đuổi ma quỷ năm cũ và cấm ma quỷ năm mới vào nhà.  






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.