VŨ XUÂN TRIỆU
Là một cây bút có tên tuổi của văn đàn dân tộc tuy nhiên tác phẩm của Vũ Bằng lại gặp khá nhiều trắc trở trên con đường đến với bạn đọc. Mãi sau này khi nhà văn từng mang tiếng “dinh-tê” này được công nhận là một chiến sĩ công báo hoạt động trong nội thành, thì các tác phẩm của ông mới dần dần được công bố.
Cùng với thời gian độc giả trực tiếp đọc tiểu thuyết, truyện ngắn, tạp văn và ngày càng chú ý hơn đến Vũ Bằng như một đời cầm bút sống động, thú vị còn không ít điều cần khám phá.
Vũ Bằng dấn thân vào nghiệp báo với nỗi đam mê song trong lĩnh vực văn học, ông cũng có không ít những cống hiến đặc biệt là ở thể loại hồi ký. Trong đó Bốn mươi năm nói láo (1969) là một thiên hồi ký với những nét đặc sắc tiêu biểu. Qua ngòi bút tinh tế, đầy tài năng của Vũ Bằng tác phẩm được xem vừa là một cuốn vừa biên khảo về lịch sử báo chí, vừa là một cuốn tạp chí về cảnh sinh hoạt báo chí của nước ta với những trải nghiệm, sự thức tỉnh trong nhận thức của nhà văn về sự nghiệp làm báo.
1. Bốn mươi năm nói láo - nét đặc sắc trong tiêu đề
Chúng ta đã từng bắt gặp những cái tên tác phẩm khiến người đọc phải suy nghĩ như “Đôi mắt” của Nam Cao hay “Vợ nhặt” của Kim Lân… và ở đây ta lại bắt gặp Vũ Bằng với cách đặt tên tiêu đề cho tác phẩm của mình khá thú vị: Bốn mươi năm nói láo. Vậy đằng sau tiêu đề đó ẩn chứa điều gì? Ngay từ trang viết đầu tiên trong tác phẩm của mình, Vũ Bằng đã lý giải cách đặt tiêu đề của mình như sau: “Bây giờ, người ta gọi nghề làm báo là nghề nói láo ăn tiền. Kẻ viết bài này ngã vào nghề đó đã lâu, hôm nay, ngồi giở lại cuốn sổ ký ức của mình, xin nhận ngay là mình làm nghề “nói láo”. Vì thế tác giả lấy đầu đề tập ký ức là “Bốn mươi măm nói láo” chớ không dám đề là “Bốn mươi năm làm báo”” [1, tr.15-16].
Nghề “nói láo” là một tiếng thông dụng chỉ những người viết báo, có tính châm biếm. Chính “danh hiệu” mà những độc giả lúc bấy giờ gán cho ông và đồng nghiệp của mình khiến cho Vũ Bằng trong hồi ký của mình không dám nhận đó là “nghề làm báo”. Trong tiêu đề của tác phẩm người đọc thấy ở Vũ Bằng dường như chứa đựng sự chua xót cho chính bản thân và nghề nghiệp của mình. Đồng thời nó cũng thể hiện tính tự trào, ông cười, một tiếng cười đầy chua xót cho chính bản thân mình và những người đồng nghiệp cùng thời. Suốt hơn ba trăm trang sách của mình Vũ Bằng đã tường thuật lại những gì mà ông và đồng nghiệp đã “nói láo” trong gần bốn thập kỷ phát triển của báo chí nước nhà với tư cách là một chứng nhân. Và độc giả đã phần nào cảm nhận được những gì mà công việc của những con người bị mang tiếng là “nói láo” mang lại cho lịch sử dân tộc nói chung và lịch sử báo chí, văn học Việt Nam. Đến đây mọi người đã thực sự hiểu được cái dụng ý của nhà văn ẩn đằng sau tiêu đề Bốn mươi năm nói láo. Đó dường như là một sự thổ lộ, giải bày, một sự nhìn lại mình một cách nghiêm cẩn của nhà văn để đi từ sự lầm lạc trong suy nghĩ đến một sự thức tỉnh trong nhận thức về nghề nghiệp và vai trò của mình trong xã hội. Và trong suốt mấy chục năm làm báo, va chạm với biết bao nhiêu là chuyện bất như ý, cũng như trải qua bao nhiêu lần “lên voi xuống chó”, mặc dù người mẹ hiền của ông đã khuyên can ông đừng chọn lựa một cái nghề mà cái nghiệp quá nặng. Bởi bà đã là người in sách, bán sách có rất nhiều kinh nghiệm với những người có liên quan đến nghề bạc bẽo ấy. Nhưng ông vẫn kết luận câu chuyện của mình bằng thái độ cho sự lựa chọn nghề nghiệp của mình là đúng: “…Người mẹ nào sinh con lại chẳng muốn cho con sau này ăn nên làm ra, có vai có vế nhưng mẹ ơi, con đành chịu tội bất hiếu với mẹ: nếu trở lại làm người con cứ lại xin làm báo!!” [1, tr.389].
Với tất cả những gì Vũ Bằng viết ra để lý giải về nhan đề mà mình “tự nhận” và những tâm sự ông thể hiện trong tác phẩm của mình, độc giả đã phần nào hình dung được bức tranh sinh hoạt của báo chí Việt Nam với những thăng trầm cũng như những tâm sự ẩn chứa đằng sau của những người làm nghề “nói láo”. Nó gợi cho người đọc nhiều ẩn chứa đằng sau tác phẩm cần phải khám phá.
2. Bốn mươi năm nói láo - hồi ký về báo chí và nghề báo
Qua Bốn mươi năm nói láo Vũ Bằng đã cho độc giả thấy sự thật về chuyện thời đó ra một tờ báo nhanh chóng như thế nào và đóng cửa một tờ báo cũng nhanh chóng và dễ dàng không kém, những vui buồn trong từng số báo, mục báo, bài báo... Rồi cả chuyện bọn thực dân không từ thủ đoạn nào để khủng bố, chèn ép những người làm báo dám công khai đả kích quan trường, lên án chế độ thuộc địa. Chuyện tờ “Công dân” chấp nhận đóng cửa chứ nhất quyết không hạ bút xin lỗi viên tri huyện giết người theo yêu cầu của bọn mật thám. Chuyện các nhà báo mắc bẫy Pháp quay sang đả kích căm thù lẫn nhau. Chuyện hầu hết các nhà báo, nhà văn ai cũng “nghiện lõ đít”, hút á phiện sáng đêm, chơi cô đầu tưng bừng... Thông qua cuốn hồi ký của Vũ Bằng, người đọc cũng có thể hình dung một cách khá đầy đủ những biến động của báo chí Việt Nam trong suốt khoảng bốn thập kỷ cả ở miền Bắc và miền Nam, từ lúc đánh đuổi Pháp, Nhật đến chuyện Ngô Đình Diệm của chính quyền ngụy quyền bị ám sát. Đó là những câu chuyện vui buồn lẫn lộn, những thách thức những cảm xúc mà ông cùng đồng nghiệp trải qua trong hoạt động làm báo, làm cách mạng. Chuyện kể về những biến động ở Sài Gòn khi Ngô Đình Diệm thoát chết và những tác dụng của những bài báo đối với công luận, chuyện những tờ báo bị đóng cửa hàng loạt như thế nào cũng được Vũ Bằng tái hiện một cách đầy đủ qua hành trình ngòi bút của mình. Cả một thời kỳ sôi động và đầy biến động của báo chí nước nhà đã được Vũ Bằng “tua” lại bằng ký ức của mình tươi mới và nóng hổi như ngày hôm qua qua từng trang viết.
Tuy chưa phải là người học báo và làm báo chuyên nghiệp nhưng khi đọc và tìm hiểu Bốn mươi năm nói láo chúng tôi cảm nhận dường như tác phẩm còn “dạy” cho người ta biết yêu báo, say báo và biết quý trọng nghề báo. Đó là bài học về cách viết như thế nào cho hay, cách phản bác lại những sự công kích của những người quản lý như thế nào cho khỏi nhận “phần thiệt” về mình… Những tâm sự và những nhận định xương máu đó của Vũ Bằng trong “một vạn rưỡi ngày làm báo” được ông thể hiện ở phần 5 (Báo là gì) của cuốn hồi ký. Đó cũng chính là những điều mà Vũ Bằng muốn nhắn gửi, những lời tâm huyết của nhà văn về việc làm báo. Đồng thời ông cũng nêu lên những phẩm chất, đạo đức mà những người làm báo tương lai hôm nay cần phải có để hoàn thành nhiệm vụ của mình theo đúng nghĩa của một người làm báo, để báo chí xứng đáng là “quền lực thứ tư” của xã hội, là thứ mà “dắt người ta đi đâu thì người ta phải đi đến đấy”.
Có thể khẳng định Bốn mươi năm nói láo của Vũ Bằng đã thâu tóm được khá toàn diện và trung thực bộ mặt của báo chí công khai nước nhà từ những năm 30 dưới chế độ Pháp thuộc đến tận những năm dưới chế độ Mỹ - Ngụy ở Miền Nam sau này. Bao thăng trầm, thua hay dở của hàng mấy chục tờ báo có tên tuổi trong thời Pháp và thời Mỹ đều được Vũ Bằng với tư cách là một chứng nhân, một người hoạt động dài hơi nhất. Sau những lời hồi kể của ông, người đọc hình dung được một bức tranh khá sống động thuộc một dòng chảy khác của báo chí nước nhà mà ngày nay chúng ta rất cần nhìn ngắm lại. Cái dòng chảy đó rất phong phú và đa dạng và không kém phần phức tạp như chính tình hình chính trị - xã hội lúc đó. Nếu quên hoặc không công bằng với nó, vô hình dung chúng ta đã đánh mất hoặc làm nghèo đi một mảng quan trọng của đời sống tinh thần và trí tuệ dân tộc. Đừng quên nó, đó là điều mà Vũ Bằng đã làm được qua cuốn hồi ký này.
![]() |
Nếu như Bốn mươi năm nói láo chỉ đơn giản là cuốn hồi ký về con đường làm báo của nhà văn Vũ Bằng, chỉ có đơn độc những sự kiện liên quan đến Vũ Bằng: nào là Vũ Bằng đã làm ở những tờ báo nào, đã viết những bài báo để đời nào, tiếng tăm ra sao một cách đơn thuần không thôi thì chắc nó sẽ chẳng được ai mó tới hoặc cùng lắm là để người ta đọc một lần tham khảo rồi thôi. Nhưng không, Bốn mươi năm nói láo lại chẳng có tí phần trăm nào tôn vinh tác giả, hay coi tác giả là nhân vật chính. Bởi nó thu nạp trong đó bao nhiêu câu chuyện lâm ly, kỳ thú về một thời sôi động của báo chí Việt Nam hàng chục năm nửa đầu thế kỷ XX, về những cây bút, những nhà trí thức nổi danh. Thế nên mỗi lần đọc tác phẩm là một lần ta khám phá, chúng ta biết thêm nhiều người đáng biết mà ta chưa biết, yêu mến thêm nhiều người đã biết mà chưa hiểu hết. Họ hoặc đã chết đi, hoặc còn sống nhưng những nhân vật ấy lần lượt xuất hiện qua ngòi bút của nhà văn, mỗi người hiến cho độc giả một vài mẩu chuyện vui có, buồn có, nhưng thật mới lạ.
Thật thế, nếu không có Bốn mươi năm nói láo ai có thể biết được Vũ Trọng Phụng viết Giông tố và Số đỏ theo kiểu “ăn xổi”: “…Cứ gần đến ngày phải nộp bài cho “Hà Nội Báo” - tiểu thuyết “Giông tố” bắt đầu viết từng kỳ trên báo này - Vũ Trọng Phụng lại ngồi ì ra một đống, hút thuốc lào và hỏi ầm lên có ai biết kỳ trước “Giông tố” đã viết đến đoạn nào rồi không. Chẳng ai trả lời cả, bởi vì chẳng có ai đọc “Giông tố” hết. Vũ Trọng Phụng chán đời hết sức, đành phải đi tìm “Hà Nội Báo” để đọc xem mình đã viết đến câu gì, bấy giờ mới phủ phục xuống giường như con voi viết tiếp, mắt hiếng hẳn đi mà lưỡi thì lè ra như lưỡi con thằn lằn, có khi vừa viết vừa chửi thề sao mình lại khổ đến thế này, cứ phải viết mới có tiền sanh sống” [1, tr.108]. Không đọc Bốn mươi năm nói láo, sao ai có thể biết một người nổi tiếng uyên thâm, sắc sảo như Ngô Tất Tố lại tin lời Vũ Bằng thành tâm học thuộc làu mấy từ “tiếng Pháp” do ông dạy: “đanh đông” là cái đỉnh đồng, “lơsơvơ” là anh sợ vợ, “laboratoire” là Lã Bố ra tòa... để thiếu chút nữa thì có thể uất đến thổ ra máu như Chu Công Cẩn. Đọc Bốn mươi năm nói láo người ta còn biết thêm được sự cầu kỳ của Nguyễn Tuân trong ăn uống để có thể nâng nó lên thành văn hóa ẩm thực, …
Bằng vài nét tiêu biểu, từ sự thông hiểu cũng như quen biết, những nhân dáng ấy có sự chân thật, tuy đôi lúc có chút suồng sã… Trong tác phẩm Bốn mươi năm nói láo, chân dung của những người cầm bút, đồng nghiệp của Vũ Bằng được hình thành với tất cả những nét đặc thù: Hoàng Tích Chu, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Tychia Đái Đức Tuấn, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Đào Trinh Nhất, Tô Hoài,... toàn là những tên tuổi của một thời văn học. Những nét chấm phá thật sinh động, là sự thực của đời thường, nên có sức lôi cuốn và những chi tiết sống thực ấy làm cho người đọc hiểu rõ ràng hơn về trường hợp sáng tác cũng như những thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm…
3. Nét đặc sắc trong phương thức thể hiện
Ngôn ngữ trong hồi ký Bốn mươi năm nói láo được Vũ Bằng sử dụng một cách độc đáo, thể hiện được những nét tính cách riêng của nhà văn. Thông qua những dòng hồi tưởng của mình, hồi ký thông thường là ngôn ngữ độc thoại của nhà văn nhưng ở Bốn mươi năm nói láo người đọc cảm nhận dường như nhà văn đang thể hiện những tâm trạng, những dòng hồi kể của mình dưới dạng ngôn ngữ đối thoại. Người đọc có thể lắng nghe một cách thú vị hai cái “tôi” đã được tác giả phân thân qua tính chất của lời nói, cho phép sự trở đi trở lại uyển chuyển giữa quá khứ và hiện tại, giữa phân tích và lời nhắc lại, bộc lộ khao khát vươn tới cội nguồn những kỷ niệm với những cuộc gặp gỡ lớn in dấu trong cuộc đời tác giả.
Ngôn ngữ trong hồi ký Bốn mươi năm nói láo cũng thể hiện tính trào lộng. Tính trào lộng được thể hiện ngay trong tiêu đề của tác phẩm. Tính tự trào, hài hước trong tác phẩm còn được Vũ Bằng thể hiện qua cách sử dụng câu chữ một cách khéo léo theo kiểu chơi chữ tạo cho người đọc những ấn tượng và bị thu hút.
Có thể nói toàn bộ áng văn xuôi này là tâm tình của tác giả với bạn đọc và những tâm tình ấy được giãi bày trong sự tha thiết đến chới với, muốn nói thật nhanh, muốn nói ra bằng được những điều bấy lâu dồn ép, và lấy việc được bộc lộ tình cảm, thái độ của mình trước những gì đã qua làm sung sướng.
Cũng vì chú ý giữ lấy tính chất tự nhiên của câu chuyện, và sẵn sàng xem việc viết ra là để thoả mãn nhu cầu của bản thân hơn là cho một công chúng giả tưởng nào đó được đọc, tác phẩm văn xuôi này của Vũ Bằng còn nổi bật lên với một giọng điệu riêng khó lẫn với người khác. Bốn mươi năm nói láo là một hồi ký đa giọng điệu với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa giọng của một nhà văn và giọng của một nhà báo.
Ngay từ những trang viết đầu tiên người đọc đã bắt gặp một giọng điệu mỉa mai, tự trào của tác giả khi đọc tiêu đề Bốn mươi năm nói láo Bên cạnh một sắc giọng chua xót tự trào của nhà văn chúng ta còn bắt gặp trong tác phẩm một cái tôi hồi tưởng của nhà văn thông qua những dòng hồi ức mang đậm chất suy tư, mượt mà giàu chất thơ. Và có lẽ “Làm báo lưu động ở khu Ba” là một phần viết hay nhất trong tập sách, bởi ngòi bút ông đã đi trọn trong dòng mạch đỏ của cảm xúc: “Sống cả một kiếp ở nội thành ông thừa nhận - không thể có những phút giây thương thương như thế” [1, tr.394]. Phút giây ấy là những phút giây cảm nhận của Vũ Bằng về tấm lòng của nhân dân vùng hậu phương kháng chiến khi ngày đầu mới chống Pháp. Tiếc rằng Vũ Bằng đã không được nhiều “những phút giây thương thương như thế” trong suốt cuộc đời làm báo và hoạt động cách mạng của mình.
Xuyên suốt cả hơn ba trăm trang sách của mình, người đọc thấy ở Vũ Bằng toát lên một giọng chủ đạo đó chính là sự suy tư và hồi tưởng của tác giả về những gì đã qua. Đó còn là một sự soi lại mình và soi lại xã hội của tác giả một cách nghiêm cẩn để đi từ sự lầm lạc trong suy nghĩ đến một sự thức tỉnh trong nhận thức về nghề nghiệp và vai trò của mình trong xã hội. Chính sự nghiêm cẩn đó đã giúp tác giả và những người làm báo cùng thời với ông nhận ra một điều rằng: người đời nói làm báo là “nói láo ăn tiền”, mặc họ; nhưng người làm báo chân chính không thể và không bao giờ quan niệm nghề nghiệp của mình như vậy. Hơn ai hết họ biết báo chí là bộ môn văn hóa phản ánh sinh động nhất, đầy đủ nhất tinh thần cho một chế độ, cho một xã hội.
*
Hồi ký Bốn mươi năm nói láo của Vũ Bằng là tác phẩm có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các đặc điểm, tính chất của ký văn học và ký báo chí. Với tính chất phác họa bức tranh lịch sử báo chí nước nhà, tác phẩm mang đôi chút hơi thở của một tác phẩm hồi ký báo chí. Nhưng với chất giọng giàu suy tư và tình cảm cũng như những hình tượng mà nhà văn đã xây dựng nên nó lại mang đậm tính chất của một hồi ký văn học.
Nếu như với Thương nhớ mười hai, Miếng ngon Hà Nội, trên cảm hứng sáng tạo về tình yêu dân tộc, yêu quê hương Vũ Bằng đã gợi lên một nỗi buồn nhớ của con người thuở đất nước chia cắt làm hai miền, ở những gam màu này ta thấy lòng yêu nước, yêu đất đai của con người giăng mắc, vấn vương từ muôn ngàn sự việc ngỡ như bình thường, nhỏ nhoi, như vô cớ, không đâu mà lại thắt buộc bền chắc cả đời người. Thì cũng con người tài năng ấy nhưng khi đọc và cảm nhận những trang mà Vũ Bằng viết về năm tháng sống và làm báo qua hồi ký Bốn mươi năm nói láo người đọc lại cảm nhận dường như ông đang thể hiện tiếng lòng của mình với tâm huyết của một đời làm báo.
Có thể nói với Bốn mươi năm nói láo người đọc ấn tượng với tác phẩm ngay từ trong tên tiêu đề với nhiều ẩn chứa nghệ thuật bên trong cũng như cách sử dụng ngôn ngữ vừa bình dị dân dã nhưng mang lại hiệu quả nghệ thuật cao phù hợp với chất giọng vừa có phần chua xót, vừa có chút gì tự trào ngông với đời nhưng cũng đầy suy tư và chiêm nghiệm về sự nghiệp, cuộc đời, xã hội. Đồng thời với tài năng của một nhà văn, nhà báo lão thành, Vũ Bằng đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa ký báo chí và ký văn học để tạo một phong cách và hơi thở riêng cho tác phẩm của mình. Chính những điều này thể hiện được nét phong cách và giọng điệu riêng của một nhà văn, nhà báo đầy tâm lực Vũ Bằng.
V.X.T
(SDB 6-12)
HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.
MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.
NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.
ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.
NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.
TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...
NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.
MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.
TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.
HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.
LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.
NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.
AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.
TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!
PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.